Kết hôn – theo Luật Hôn nhân và Gia đình
1. Độ tuổi kết hôn
Độ tuổi kết hôn là tuổi mà một người được phép lấy vợ/chồng cũng như quyền làm hoặc buộc phải làm cha mẹ hoặc các hình thức đồng thuận khác. Khi đạt độ tuổi này, công dân mới có thể đăng ký kết hôn và chỉ khi đó hôn nhân mới có thể thừa nhận là hợp pháp. Quy định về độ tuổi kết hôn là khác nhau ở mỗi nước, nhưng nhìn chung thì phần lớn các quốc gia quy định độ tuổi kết hôn của nữ là từ 18-21 tuổi, và tuổi kết hôn của nam bằng hoặc lớn hơn nữ 1-2 tuổi. Tại Việt Nam. theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định tuổi kết hôn của nam phải từ đủ 20 tuổi và nữ từ đủ 18 tuổi trở lên.
Việc quy định độ tuổi kết hôn phản ánh rõ ràng sự phù hợp dựa trên cơ sở khoa học và xã hội. Độ tuổi kết hôn quy định căn cứ vào sự phát triển tâm sinh lý, khả năng nhận thức, khả năng lao động của cả hai giới nam, nữ. Chỉ khi con người đạt đến độ tuổi nhất định mới có suy nghĩ đúng đắn và đưa ra quyết định nghiêm túc trong việc kết hôn của mình và khả năng tham gia vào quá trình lao động tạo ra thu nhập khi mà con người đạt đến độ tuổi nhất định. Điều đó đảm bảo cho họ có thể xây dựng một cuộc sống độc lập về kinh tế, có đầy đủ ý thức xã hội để thực hiện các quyền và chức năng của gia đình. Đồng thời cũng căn cứ vào khả năng sinh sản của nam, nữ để đảm bảo cho con cái được sinh ra một cách khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần, trí tuệ, có thể phát triển tốt trở thành công dân có ích cho xã hội, Việc pháp luật quy định về độ tuổi kết hôn là hết sức quan trọng, nó đảm bảo cho việc công dân có thể xây dựng gia đình ấm no, bền vững, hạnh phúc, bình đẳng và tiến bộ.
Hiện nay tuổi có thể kết hôn với nam là từ đủ 20 tuổi trở lên với nữ là từ đủ 18 tuổi, đã thay đổi so với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 trước đó là nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên.
2. Sự tự nguyện của hai bên nam và nữ
Kết hôn tự nguyện được hiểu là trường hợp nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau hoàn toàn tự do theo ý chí của hai bên, không lệ thuộc vào ý chí của người khác. Tự nguyện của nam, nữ trong kết hôn là mong muốn xuất phát từ nguyện vọng của cả hai, tự mình quyết định việc kết hôn và thể hiện ý chí muốn gắn kết lâu dài, muốn trở thành vợ chồng, xuất phát từ tình yêu thương nhau và hướng tới mục đích cùng nhau xây dựng gia đình, cùng nhau sống chung suốt đời nhằm thỏa mãn như cầu tình cảm tinh thần giữa hai nguời. Sự tự nguyện là yếu tố quan trọng đảm bảo cho hôn nhân có thể tồn tại lâu dài và bền vững. Điều này được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:“Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định”
Để đảm bảo lợi ích của vợ chồng con cái, đảm bảo cho hôn nhân được tồn tại lâu dài, bên vững thì rất cần sự hoàn toàn tự nguyên giữa các bên khi kết hôn. Sự tự nguyện trong hôn nhân gia đình rất quan trọng bởi điều này là yếu tố quyết định rằng cuộc hôn nhân của các công dân có thể bền vững hạnh phúc và lâu dài được không. Đồng thời, kết hôn tự nguyện còn thể hiện ở việc công dân tự nguyện đi đăng ký kết hôn ở các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, ghi nhận sự tự nguyện kết hôn là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền tự do kết hôn của mỗi cá nhân công dân, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, hòa thuận và bền vững.
3. Năng lực hành vi dân sự của hai bên
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, pháp luật Việt Nam quy định rằng người mất năng lực hành vi dân sự không được phép kết hôn vì theo điểm c khoản 1 Điều 8: “Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây: Không bị mất năng lực hành vi dân sự,….”
Đồng thời cũng quy định rõ về trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự tại Điều 22 Bộ luật dân sự 2015. Ta có thể thấy rõ rằng việc pháp luật quy định người mất năng lực hành vi dân sự không được phép kết hôn hoàn toàn xuất phát từ tính nhân đạo nhằm bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mọi đối tượng trong gia đình bao gồm vợ, chồng, con cái và các thành viên khác. Quy định này là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết vì người không nhận thức được hành vi của mình thì không có khả năng nhận thức và thực hiện một cách đúng đắn ý chí của mình trong vấn đề kết hôn, không thể hoàn thành trách nhiệm làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ trong đời sống hôn nhân gia đình. Sau khi kết hôn cả nam và nữ đều có quyền và nghĩa vụ cũng như có trách nhiệm phải thực hiện của một người vợ, chồng. Nếu họ mất năng lực hành vi dân sự mà được phép kết hôn thì họ sẽ không thể hoàn thành trách nhiệm và nghĩa vụ của người vợ hoặc chồng phát sinh sau kết hôn. Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của bên còn lại.
4. Trường hợp cấm kết hôn
Pháp luật Việt Nam quy định rõ các trường hợp cấm kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:
- Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
- Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
- Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
- Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng,….
Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 trước đó, pháp luật có quy định việc kết hôn giữa những người cùng giới với nhau bị cấm. Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã được sửa đổi về việc kết hôn đồng giới rằng “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” ở khoản 2 điều 8.
4.1. Kết hôn giả tạo
Kết hôn giả tạo là việc hai bên nam, nữ đồng ý kết hôn theo những hợp đồng, thỏa thuận ngầm hoặc trái với quy định của pháp luật để có thể tiến hành kết hôn vì những lý do khác hơn là những lý do xây dựng gia đình hay kết hôn trên cơ sở tình yêu tự nguyện. Đó có thể là một cuộc hôn nhân được dàn xếp cho lợi ích cá nhân ví dụ như kinh tế, địa vị xã hội, vấn đề cư trú, nhập cảnh….hoặc một số nhóm mục đích khác chẳng hạn như hôn nhân chính trị…Trên nguyên tắc, kết hôn giả tạo vẫn sẽ đảm bảo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng tuy nhiên mục đích kết hôn không được đảm bảo. Quy định kết hôn giả tạo là một trong những hành vi bị cấm thể hiện rõ thái độ của Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền tự do kết hôn của cá nhân; góp phần xây dựng gia đình Việt Nam tiến bộ, phát triển, duy trì tính chất thật của một cuộc hôn nhân hạnh phúc, tránh việc hôn nhân bị biến thành một phương tiện gián tiếp để hưởng lợi của một số cá nhân. Việc kết hôn giả có thể gây ảnh hưởng và làm mất đi tính chất tốt đẹp của hôn nhân, ngoài ra có thể gây tiêu cực đến các vấn đề kinh tế – xã hội.
4.2 Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn
-
Cưỡng ép hôn nhân là việc đe dọa, uy hiếp, hành hạ, ngược đãi về tinhthần, yêu sách của cải hoặc thể chất, hoặc hành vi khác buộc người kia phải kết hôn trái ý muốn.
-
Lừa dối kết hôn là việc một bên có hành vi cố ý làm cho bên kia hiểu sailệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của quan hệ đó, thông qua lời nói hoặc sử dụng các phương thức khác kết hợp hành vi gây hiểu sai lệch cho đối phương.
-
Cản trở kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp, hành hạ, ngược đã về tinh thầnhoặc thể chất nhằm ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết hôn theo quy định pháp luật.
-
Cấm các hành vi cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn đềunhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của công dân, thể hiện ý chí tự nguyện của nam, nữ khi đăng ký kết hôn.
- Trụ sở: Tổ 1, Nguyễn Huệ, Kp 3, thị trấn Trảng Bom, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.
- Chi nhánh: Số 41 Cách Mạng Tháng Tám, phường Xuân An, Tp. Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.
- Điện thoại: 0937.67.69.69 – 0936392979
- Email: luatsutrangiap@gmail.com