Vi phạm chế độ hôn nhân vẫn được công nhận hôn nhân hợp pháp 2024

1. Vi phạm chế độ một vợ, một chồng

Một trong những nguyên tắc xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam là hôn nhân một vợ một chồng (Khoản 1 Điều 2 Luật HN-GĐ). Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986, 2000 đều quy định nguyên tắc “một vợ, một chồng”. Do đó, người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ là vi phạm chế độ một vợ, một chồng và bị pháp luật cấm. Các trường hợp kết hôn này bị coi là hôn nhân không hợp pháp.

Tuy nhiên, do đặc điểm lịch sử Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn của chiến tranh và có thời kỳ đất nước bị chia cắt, do đó pháp luật Việt Nam vẫn thừa nhận một số trường hợp hôn nhân vi phạm chế độ một vợ, một chồng là hôn nhân hợp pháp, cụ thể như sau:

1.1. Trường hợp kết hôn trước ngày 13/01/1960 ở miền Bắc (ngày Luật Hôn nhân và gia đình 1959 có hiệu lực):

Theo quy định của Luật HN-GĐ năm 1959 thì kể từ ngày 13/01/1960, những trường hợp kết hôn vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng là hôn nhân không hợp pháp. Các quan hệ hôn nhân xác lập trước thời điểm 13/01/1960 không bị điều chỉnh bởi nguyên tắc của Luật HN-GĐ năm 1959 nên dù có quan hệ hôn nhân nhiều vợ, nhiều chồng vẫn được coi là hợp pháp. Những quan hệ hôn nhân này là hợp pháp nên các chủ thể (vợ hoặc chồng) có quyền và nghĩa vụ theo quan hệ hôn nhân hợp pháp. Cụ thể như họ có quyền thừa kế tài sản của nhau, nhưng nếu họ không được Tòa án cho ly hôn mà đã kết hôn với người khác (kể từ thời điểm 13/01/1960) là trái pháp luật; hôn nhân sau không được công nhận.

Cũng cần lưu ý là, quan hệ hôn nhân nhiều vợ, nhiều chồng trước Luật HN-GĐ 1959 có thể có đăng ký, cũng có thể không có đăng ký. Do tồn tại lịch sử, chúng ta không chỉ thừa nhận những quan hệ hôn nhân có đăng ký là hợp pháp mà cả những quan hệ hôn nhân thực tế cũng được coi là hợp pháp.

1.2. Trường hợp kết hôn trước ngày 25/3/1977 ở miền Nam (ngày ban hành Nghị quyết số 76/CP)

Do đặc điểm lịch sử của nước ta, Luật HN-GĐ năm 1959 sau khi ban hành, mới chỉ có hiệu lực ở miền Bắc. Ở miền Nam, thời điểm áp dụng Luật HN-GĐ năm 1959 là ngày 25/3/1977 (ngày ban hành Nghị quyết 76/CP công bố danh mục văn bản pháp luật áp dụng trong cả nước, trong đó có luật Hôn nhân và gia đình năm 1959). Tương tự như ở miền Bắc, những quan hệ hôn nhân xác lập trước ngày 25/3/1977 ở miền Nam không tuân theo nguyên tắc một vợ một chồng vẫn được công nhận hợp pháp.

1.3. Trường hợp công nhận hôn nhân hợp pháp theo Thông tư 60/TATC ngày 22/02/1978 của Tòa án nhân dân tối cao.

Theo quy định tại Thông tư 60 nêu trên thì bộ đội, cán bộ có vợ, có chồng ở miền Nam tập kết ra miền Bắc, lấy vợ, chồng khác. Nay nếu vợ hoặc chồng ở miền Nam vẫn không có quan hệ hôn nhân mới và vẫn muốn duy trì quan hệ hôn nhân trước đây thì công nhận cả hôn nhân trước đây và hôn nhân mới là hôn nhân hợp pháp.

Cần chú ý là Thông tư 60 quy định hướng giải quyết khá cụ thể cho từng loại quan hệ hôn nhân và chỉ với những quan hệ hôn nhân được xác lập trong thời gian từ sau ngày ký Hiệp định Giơnevơ đến ngày Luật Hôn nhân và gia đình áp dụng trong cả nước (từ ngày 20/7/1954 đến 25/3/1977).

Quy định của Thông tư 60 là trường hợp công nhận hôn nhân hợp pháp đặc biệt trên cơ sở xét đến hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh, yêu cầu ổn định quan hệ gia đình phù hợp đạo lý và giải quyết hậu quả đặc biệt của chiến tranh.

Vấn đề đặt ra là, trường hợp cán bộ, bộ đội đã có quan hệ hôn nhân ở miền Bắc, vào miền Nam chiến đấu, công tác lại có quan hệ hôn nhân mới ở miền Nam có được công nhận hôn nhân mới ở miền Nam là hợp pháp theo quy định của Thông tư 60 hay không? Trước hết, phải xác định các đối tượng này không phải là các chủ thể thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư 60. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt do hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh và yêu cầu nhiệm vụ công tác mà có cơ sở xem xét giống như quy định tại Thông tư 60 thì cũng cần công nhận quan hệ hôn nhân mới của họ là hợp pháp (cùng với quan hệ hôn nhân đã có trước ở miền Bắc). Ví dụ: Do điều kiện công tác mà cơ quan, tổ chức của một người đồng ý cho họ kết hôn, mặc dù họ đang có quan hệ hôn nhân ở miền Bắc.

Riêng với trường hợp đang có quan hệ hôn nhân ở miền Bắc lại kết hôn ở miền Nam trong khoảng thời gian từ 01/5/1975 đến trước 25/3/1977 (thời gian mà đất nước đã thống nhất nhưng Luật Hôn nhân và gia đình chưa áp dụng ở miền Nam) thì không thể công nhận quan hệ hôn nhân sau là hợp pháp. Người đang có quan hệ hôn nhân ở miền Bắc biết rõ quan hệ hôn nhân mà họ đang có là hợp pháp và việc họ chưa được ly hôn lại kết hôn với người khác là trái pháp luât; điều kiện đất nước đã giải phóng, đã thống nhất nên không còn cơ sở để chấp nhận việc họ không thực hiện Luật HN-GĐ năm 1959.

2. Vi phạm do không đăng ký kết hôn

Việc đăng ký kết hôn được Nhà nước ta quy định từ Luật HN-GĐ năm 1959. Điều 11 quy định: “Việc kết hôn phải được Uỷ ban hành chính cơ sở nơi trú quán của bên người con trai hoặc bên người con gái công nhận và ghi vào sổ kết hôn”. Luật HN-GĐ năm 1986 cũng quy định tại Điều 8:  “Việc kết hôn do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của một trong hai người kết hôn công nhận và ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do Nhà nước quy định….Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý”. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố về lịch sử, kinh tế, xã hội mà quy định về đăng ký kết hôn của cả Luật HN-GĐ năm 1959 và Luật HN-GĐ năm 1986 không được thi hành nghiêm chỉnh. Để khắc phục thực tế tồn tại, tại Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, có nội dung: đối với việc kết hôn không có đăng ký, tuy vi phạm về thủ tục kết hôn nhưng không coi là kết hôn trái pháp luật, trong trường hợp này nếu có một hoặc hai bên xin ly hôn, thì Tòa án không hủy việc kết hôn mà xử như ly hôn.

Từ ngày Luật HN-GĐ năm 2000 có hiệu lực (01/01/2001) và theo quy định tại Luật HN-GĐ hiện hành (2014), thì việc đăng ký kết hôn tại Cơ quan có thẩm quyền là bắt buộc. Nếu nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì hôn nhân không được pháp luật thừa nhận, việc kết hôn không có giá trị pháp lý.

Như vậy, kể từ ngày 01/01/2001 thì nam nữ muốn trở thành vợ chồng hợp pháp của nhau phải đăng ký kết hôn. Đăng ký kết hôn là một nghi thức bắt buộc, chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc kết hôn cho họ thì giữa họ mới phát sinh quan hệ vợ chồng. Về thẩm quyền đăng ký kết hôn cũng được quy định rõ theo Điều 17 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ: Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ thực hiện việc đăng ký kết hôn.

Quy định về đăng ký kết hôn chỉ mang tính bắt buộc từ ngày 01/01/2001, do đó Nghị quyết số 35/2000 NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội và Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 18/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp về thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 quy định một số trường hợp hôn nhân không đăng ký kết hôn vẫn là hôn nhân hợp pháp, cụ thể là:

2.1 Hôn nhân xác lập trước ngày 03/01/1987

Theo Điểm a Muc 3 Nghị quyết số 35/2000 NQ-QH10 thì: Đối với quan hệ vợ chồng được xác lập trước khi Luật HN-GĐ năm 1986 có hiệu lực (trước ngày 03/01/1987) thì không bắt buộc phải đăng ký kết hôn mà chỉ khuyến khích đăng ký kết hôn. Nếu họ đăng ký kết hôn thì việc tham gia các giao dịch có căn cứ pháp lý và thuận lợi hơn, Nhà nước tạo điều kiện để họ đăng ký kết hôn được dễ dàng  nhưng dù họ có đăng ký kết hôn hay không đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng vẫn được công nhận là hợp pháp và thời kỳ hôn nhân hợp pháp bắt đầu kể từ ngày xác lập.

2.2. Hôn nhân xác lập trong thời gian có hiệu lực của Luật HN-GĐ năm 1986 (từ 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001), được coi là hợp pháp đến ngày 01/01/2003:

Theo quy định tại Điểm b Mục 3 Nghị quyết số 35/2000 NQ-QH10 và Mục 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì: Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật có hiệu lực cho đến ngày 01/01/2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật HN-GĐ năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.

Như vậy, kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 01/01/2003 nếu họ chưa đăng ký kết hôn hoặc đã đăng ký kết hôn mà họ có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật HN-GĐ năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Cần chú ý trong trường hợp họ thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, thì quan hệ của họ vẫn được công nhận là đã xác lập kể từ ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng, chứ không phải kể từ ngày đăng ký kết hôn.

Đặc trưng quy định cho trường hợp tại Điểm b Khoản 3 Nghị quyết 35/2000 khác với trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập trước Luật HN-GĐ năm 1986 có hiệu lực (trước 03/01/1987) và sau Luật HN-GĐ năm 1986 có hiệu lực (từ 01/01/2001) là quy định một thời hạn để họ đi đăng kí kết hôn. Thời hạn “đăng kí chậm” 2 năm này để giành quyền cho họ hợp pháp hoá quan hệ vợ chồng. Và như vậy, có thể có các khả năng như sau:

– Trường hợp 1: Họ xin ly hôn trong thời gian “đăng kí chậm”. Trong thời hạn này, họ không đăng kí kết hôn mà yêu cầu xin ly hôn thì “Toà án áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết”. Có nghĩa là hôn nhân đã có của họ được công nhận là hợp pháp từ thời điểm xác lập đến thời điểm cho ly hôn: các quyền và nghĩa vụ pháp lý xuất hiện trong thời kì hôn nhân này giống như các quan hệ hôn nhân hợp pháp khác.

Ví dụ: Ông A và và B chung sống với nhau như vợ chồng từ 01/01/1988 không có đăng kí kết hôn. Năm 1995, ông A mua được một ngôi nhà (không có công sức của bà B). Năm 1999, ông A bán nhà cho ông C (bà B không đồng ý bán nhà). Ngày 2/1/2001, ông A xin ly hôn bà B. Tòa án có cơ sở xác định cho ly hôn và xác định ngôi nhà mua năm 1995 là tài sản chung để phân chia cho ông A và bà B; hợp đồng mua bán nhà giữa ông A với ông C là vô hiệu.

– Trường hợp 2: Họ đăng kí kết hôn trong thời gian “đăng kí chậm”. Quan hệ hôn nhân của họ được công nhận hợp pháp kể từ thời điểm xác lập. Trong ví dụ nêu trên, nếu ông A và bà B đi đăng kí kết hôn vào ngày 02/01/2001, sau đó mới xin ly hôn và đến ngày 1/1/2004 mới được xét cho ly hôn thì thời kỳ hôn nhân hợp pháp của ông A và B là từ 1/1/1988 đến 1/1/2004 chứ không phải chỉ từ 2/1/2001 (ngày đăng kí kết hôn) đến ngày cho ly hôn. Và như vậy, ngôi nhà tạo lập năm 1995 vẫn là tài sản chung của vợ chồng.

– Trường hợp 3: Đến 15/01/2003, ông A và bà B mới đăng kí kết hôn. Trường hợp này, quan hệ hôn nhân hợp pháp của ông A và bà B chỉ được tính kể từ thời điểm kết hôn (15/01/2003). Và như vậy, ngôi nhà tạo lập năm 1995 là tài sản có trước hôn nhân, nó đương nhiên là tài sản riêng của ông A. Qua ngày 01/01/2003 họ không đăng kí kết hôn là họ đã tự xoá khả năng công nhận thời kỳ hôn nhân hợp pháp của toàn bộ quá trình chung sống trước đó.

– Trường hợp 4: Sau ngày 01/01/2003, ông A và bà B không đăng kí kết hôn và một trong hai người xin ly hôn thì phải xử không công nhận là vợ chồng. Thậm chí, họ không được Toà án xử cho ly hôn mà tự đi kết hôn với người khác thì hôn nhân mới không bị coi là vi phạm chế độ một vợ một chồng (vì sau ngày 01/01/2003 quan hệ chung sống trước đó giữa ông A và bà B đương nhiên bị coi là không hợp pháp).

3. Vi phạm về tuổi kết hôn

Vi phạm về độ tuổi kết hôn là trường hợp một trong hai bên hoặc cả hai bên nam nữ chưa đạt đến độ tuổi quy định, trường hợp kết hôn vi phạm về độ tuổi còn được gọi là tảo hôn.

Luật HN-GĐ năm 1959, 1986 và 2000 đều quy định độ tuổi kết hôn là: “Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên”. Đến Luật HN- GĐ hiện nay thì quy định về độ tuổi có sửa đổi. Theo Điều 8 Luật HN- GĐ thì“nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”. Như vậy, Luật HN- GĐ hiện hành nâng độ tuổi kết hôn của nữ thành đủ 18 tuổi thay vì vừa bước qua tuổi 18 như quy định tại các Luật HN-GĐ trước đây; độ tuổi kết hôn của nam là đủ 20 tuổi thay cho vừa bước qua tuổi 20. Sự sửa đổi này để phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự. Đó là, theo Bộ luật Dân sự người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, còn theo Bộ luật Tố tụng dân sự thì đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự.

Như vậy, nếu từ trước ngày 01/01/2015 mà nam chưa bước qua tuổi 20, nữ chưa bước qua tuổi 18; từ ngày 01/01/2015 nam chưa đủ 20, nữ chưa đủ 18 tuổi mà kết hôn thì việc kết hôn giữa họ là trái quy định pháp luật và cần được hủy bỏ. Tuy nhiên, tại Điểm d1, Mục D, Phần 2 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao có quy định hướng dẫn: đối với trường hợp nếu đến thời điểm có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật cả hai bên đã đến tuổi kết hôn, trong thời gian đã qua họ chung sống bình thường, đã có con, có tài sản chung thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung. Đây là quy định cho trường hợp kết hôn trước 01/01/2015. Trường hợp tảo hôn trong thời kỳ thi hành Luật HN-GĐ hiện hành có quy định cụ thể là quan hệ hôn nhân được công nhận xác lập “từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định” (Khoản 2 Điều 11 Luật HN-GĐ). Do đó, đối với việc tảo hôn trước 01/01/2015 thì khi xác định thời điểm xác lập hôn nhân hợp pháp vẫn phải theo quy định của Luật HN-GĐ là từ thời điểm đủ tuổi kết hôn theo quy định tương ứng (trước 01/01/2015 họ đủ tuổi theo Luật HN-GĐ năm 2000 thì công nhận hôn nhân từ ngày đó, chưa đủ tuổi theo Luật HN-GĐ năm 2000 thì sau 01/01/2015 phải tính theo quy định về tuổi của Luật mới).

Tài liệu tham khảo:

Luật HN-GĐ 2000

Luật HN-GĐ 2014

Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001

Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao

Nghị quyết số 35/2000 NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội

Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ

Thông tư 60/TATC ngày 22/02/1978 của Tòa án nhân dân tối cao

—————————————————

Nếu quý khách có yêu cầu cần hỗ trợ vui lòng liên hệ:

Văn phòng Luật sư Nguyên

  • Trụ sở: Tổ 1, Nguyễn Huệ, Kp 3, thị trấn Trảng Bom, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.
  • Chi nhánh: Số 41 Cách Mạng Tháng Tám, phường Xuân An, Tp. Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.
  • Điện thoại: 0937.67.69.69 – 0936392979
  • Email: luatsutrangiap@gmail.com

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *