Sa thải thải người lao động trái pháp luật
….
Qua các tài liệu, chứng cứ mà bị đơn cung cấp phản ánh được một phần nội dung trình bày của bị đơn về hành vi sai phạm của ông S là có như mối quan hệ giữa bà Trần T B T – người cung cấp trái cây cho công ty với ông S là chị em ruột với nhau nhưng ông S không khai báo với công ty, phía nguyên đơn cho rằng tại các cuộc họp có báo nhưng không cung cấp chứng cứ thể hiện có việc khai báo. Tại phiên tòa, ông S cũng thừa nhận có tạo mối quan hệ và giới thiệu cho ông Lê M Đ với bà Quyên thể hiện qua nội dung mail mà ông S đã gửi cho bà Quyên và nội dung mail thể hiện việc mua bán phân gà…. nhưng bị đơn chưa chứng minh được các hành vi vi phạm đó của người lao động là ông S gây ra cụ thể thời điểm nào, gây thiệt hại cho công ty cụ thể là bao nhiêu, việc gây thiệt hại có nghiêm trọng đến lợi ích của công ty hay không, có còn thời hiệu xử lý kỷ luật lao động theo quy định tại Điều 124 Bộ luật Lao động hay không. Đáng lẽ ra, sau quá trình tạm đình chỉ để xác minh sai phạm của ông S là có thì công ty phải lập biên bản, yêu cầu người lao động giải trình đối với ý kiến trình bày sự việc… để xem xét lỗi, hành vi sai phạm này có gây thiệt hại hay không, nếu có mức độ thiệt hại như thế nào để làm căn cứ xem xét, xử lý kỷ luật… Do phía, Công ty không chứng minh được việc ông S có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp, tại phiên tòa đại diện bị đơn cũng chưa xác định được hành vi của ông S thực hiện có thiệt hại như thế nào, cụ thể bao nhiêu mà ra quyết định kỷ luật lao động với hình thức sa thải là chưa đúng theo nguyên tắc xử lý kỷ luật lao động là người sử dụng lao động phải chứng minh được lỗi của người lao động theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 123 Bộ Luật Lao động và theo Điều 126 Bộ luật lao động quy định chỉ áp dụng hình thức kỷ luật sa thải đối với người lao động khi vi phạm một trong những trường hợp như sau:
“1. Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma tuý trong phạm vi nơi làm việc, tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động;
- Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương mà tái phạm trong thời gian chưa xoá kỷ luật hoặc bị xử lý kỷ luật cách chức mà tái phạm.
Tái phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật theo quy định tại Điều 127 của Bộ luật này;
- Người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong 01 tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong 01 năm mà không có lý do chính đáng.
Các trường hợp được coi là có lý do chính đáng bao gồm: thiên tai, hoả hoạn, bản thân, thân nhân bị ốm có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền và các trường hợp khác được quy định trong Nội quy lao động.” Nhận thấy, hành vi của ông S theo đại diện bị đơn trình bày thì cũng không thuộc một trong các trường hợp đã nêu trên. Mặc khác, việc Công ty ra Quyết định xử lý kỷ luật ông S vào ngày 05/3/2020 khi ông S đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi. Trong quá trình giải quyết vụ án, phía nguyên đơn có cung cấp giấy trích lục khai sinh bản sao thể hiện ông S có 01 con tên Trần Hoàng Khánh Ngọc, sinh ngày 12/10/2019. Do đó, theo quy định tại điểm d khoản 4 Điều 123 của Bộ luật Lao động quy định về nguyên tắc, trình tự xử lý kỷ luật lao động thì không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động đang trong thời gian sau đây:
“a) Nghỉ ốm đau, điều dưỡng; nghỉ việc được sự đồng ý của người sử dụng lao động;
- b) Đang bị tạm giữ, tạm giam;
- c) Đang chờ kết quả của cơ quan có thẩm quyền điều tra xác minh và kết luận đối với hành vi vi phạm được quy định tại khoản 1 Điều 126 của Bộ luật này;
- d) Lao động nữ có thai, nghỉ thai sản; người lao động nuôi con nhỏ dưới12 tháng tuổi.”Đồng thời, tại khoản 1 Điều 29 Nghị định 05/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi như sau:
“Người sử dụng lao động không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động là cha đẻ, mẹ đẻ hoặc cha nuôi, mẹ nuôi hợp pháp đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi”.
Công ty không căn cứ vào quy định của pháp luật mà chỉ căn cứ vào Nội quy lao động của Công ty để áp dụng hình thức kỷ luật người lao động, việc công ty căn cứ nội quy lao động để làm cơ sở pháp lý xử lý kỷ luật đối với người lao động là không có căn cứ.
Hội đồng xét xử xét thấy, theo quy định tại Điều 119 Bộ luật lao động năm 2012 thì nội dung của Nội quy lao động không được trái với quy định của Bộ luật lao động.
Thứ ba, về thẩm quyền ký quyết định sa thải Công ty ban hành Quyết định ngày 05/03/2020, về việc sa thải ông Trần B. Tại Quyết định này, người ký buộc thôi việc đối với ông S là ông C – Giám đốc điều hành Công ty nhưng căn cứ vào Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì người đại diện pháp luật của Công ty ông D – người sử dụng lao động nên việc ông C ký quyết định cho thôi việc với hình thức sa thải là chưa đúng thẩm quyền ký xử lý kỷ luật lao động đối với ông S theo quy định tại Khoản 4 Điều 30 Nghị định 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ:
“Người giao kết hợp đồng lao động theo quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản 1 Điều 3 Nghị định này là người có thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động. Người được ủy quyền giao kết hợp đồng lao động chỉ có thẩm quyền xử lý kỷ luật lao động theo hình thức khiển trách”
Từ các căn cứ trên, có đủ cơ sở xác định việc Công ty ra quyết định xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải với ông S là trái pháp luật nên phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định tại Điều 42 và Điều 48 Bộ Luật Lao động.
Bản án được Luật Sư Đồng Nai cung cấp cho quý khách hàng.
Quý khách hàng có thể tải bản án tại: BALD__SON__CTY_TFR_CONG_BO
Nếu quý khách có yêu cầu cần hỗ trợ vui lòng liên hệ:
Văn phòng Luật sư Nguyên
- Trụ sở: Tổ 1, Nguyễn Huệ, Kp 3, thị trấn Trảng Bom, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.
- Chi nhánh: Số 41 Cách Mạng Tháng Tám, phường Xuân An, Tp. Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.
- Điện thoại: 0937.67.69.69 – 0936392979
- Email: luatsutrangiap@gmail.com