Bản án Tranh chấp kiện đòi tài sản số 03/2022/DSST

Bản án tranh chấp kiện đòi tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BN

BẢN ÁN 03/2022/DSST NGÀY 23/11/2022 VỀ TRANH CHẤP KIỆN ĐÒI TÀI SẢN

Nhận định của bản án:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, sau khi nghe ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về tố tụng:

Đồng nguyên đơn là bà Nguyễn Thị N, ông Nguyễn Ngọc T3, ông Nguyễn Xuân T4, bà Nguyễn Thị M, bà Nguyễn Thị T5 và ông Nguyễn Thanh T6 khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Viết T8, bà Nguyễn Thị Thủy H1 trả lại thửa đất số 312 đồng thời tuyên hủy giấy chứng nhận QSDĐ số A 014397 ngày 18/12/1991 của UBND huyện TT, buộc ông T8 phải bồi thường tài sản do ông T8 đã tự ý phá trị giá 66.000.000đ.

Căn cứ yêu cầu khởi kiện của đồng nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy quan hệ tranh chấp giữa đồng nguyên đơn đối với bị đơn là tranh chấp Kiện đòi tài sản. Theo Điều 26, khoản 4 Điều 34, khoản 3 Điều 35, Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự thì T2 ộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh BN. Quá T4 giải quyết vụ án bà Nguyễn Thị N ông H (chồng bà N ) chết , do đó các con của bà N Nguyễn Thị L , Nguyễn Thị Hương, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị T1 , Nguyễn Ngọc T2 , Nguyễn Văn, H2 là ng ười kế thừa quyền và nghĩa vụ của bà N. Đối với b à Nguyễn Thị T8 là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà V nhưng bà T8 từ chối tham gia tố tụng; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác là anh Nguyễn Đức Tùng, anh Nguyễn Đức Nhật đã ủy quyền cho ông Nguyễn Văn T8 và từ chối tham gia tố tụng; Đại diện UBND huyện TT đã có đơn xin xét xử vắng mặt; Đối với cáchộ dân có liên quan đến thửa đất đều từ chối tham gia tố tụng và xin xét xử vắng mặt nên Tòa án đã T8 hành giải quyết và xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[2] Nội dung:
Xét yêu cầu khởi kiện của đồng nguyên đơn thì thấy:
[2.1] Quan hệ huyết thống: Cụ Nguyễn Văn Hồng có 3 vợ và 6 người con, cụ thể:
1. Vợ thứ nhất: Cụ Vương Thị Nhiên (đã chết), hai cụ có 3 người con là:
– Ông Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1921 là liệt sỹ chống Pháp (Hy sinh năm1950).
– Bà Nguyễn Thị Sản, sinh năm 1930(đã chết) bà Sản sinh được ông Nguyễn Xuân T4, sinh năm 1954.
– Bà Nguyễn Thị N), sinh năm 1934 (đã chết).
2. Vợ thứ hai: Cụ Vương Thị Dinh(đã chết). Có hai con nhưng đã chết từ nhỏ.
3. Vợ thứ ba: Cụ Nguyễn Thị Nhữ (chết năm 1994) sinh được ba người con:
– Ông Nguyễn Ngọc T3, sinh năm 1950. Trú tại: Yên Nho, Gia Đông, TT, BN
– Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1953. Trú tại: Ấp Đông Côi, thị trần Hồ, TT, BN
– Bà Nguyễn Thị Tuyết, sinh năm 1960. Trú tại: Quan Lộc, Tiện Động, Tứ Kỳ, Hải Dương.
[2.2] Đối với yêu cầu đòi thửa đất số 312: Các đương sự đều thừa nhận nguồn gốc thửa đất là của cụ Hồng, năm 1983 cụ Hồng chết không để lại di chúc. Xét về thời hiệu thừa kế đến nay không còn. Khối tài sản của cụ Hồng thời gian đầu do V, ông T6 và ông T8 quản lý, sau này do bà V và ông T8 quản lý, ông T6 có đi về vào những ngày cúng giỗ các cụ. Ông T8 là con riêng của bà V nên không Thuc diện được hưởng khối di sản của cụ Hồng để lại. Nay đồng nguyên đơn là đại diện và người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hồng xác định di sản của cụ Hồng để lại chưa chia và buộc ông T8 phải trả lại thửa đất là có cơ sở chấp nhận. Ngày 22/11/2022, bị đơn xuất T4 chứng cứ về việc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà N là: chị Nguyễn Thị L, chị Nguyễn Thị Hương, chị Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị T1, anh Nguyễn Ngọc T2 đều đồng ý cho bị đơn được sử dụng phần đất đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ và xin rút yêu cầu khởi kiện đối với bị đơn, anh Nguyễn Ngọc H2 từ chối nhận tài sản, từ chối tham gia tố tụng. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện này của các đương sự và đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn ThịN.
[2.3] Đối với yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSDĐ: Bà V cho rằng quá T4 sử dụng đất cụ Hồng đã cho vợ chồng bà V, ông Tài thửa đất và toàn bộ tài sản
trên đất nhưng không đưa ra được các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình. Năm 1991, ông T8 làm thủ tục cấp giấy chứng nhận QSDĐ không có ý kiến của đồng nguyên đơn là đại diện cho hàng thừa kế được hưởng khối di sản của cụ Hồng và việc UBND huyện TT không T8 hành thẩm định đã làm thủ tục cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông T8 là chưa đảm bảo T4 tự theo quy định. Như vậy, giấy chứng nhận QSDĐ số A 014397, vào sổ số 00963 QSDĐ/285 ngày 18/12/1991 của UBND huyện TT cấp cho ông Nguyễn Văn T8 là không đúng đối Tượng theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của đồng nguyên đơn hủy một phần quyết định số 285/QĐ
– UB ngày 18/12/1991 của UBND huyện TT về việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Nguyễn Văn T8 đối với thửa đất số 312 .
[2.4] Đối với yêu cầu buộc ông T8 phải bồi thường số tiền 66.000.000đ do tài sản bị ông T8 phá năm 1981:
Tại phiên tòa, bà Thấn rút yêu cầu đòi ông T8 66.000.000đ. Xét thấy, việc rút yêu cầu của bà Thấn là tự nguyện, Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn.
[2.5] Đối với yêu cầu đòi tiền nguyên vật liệu là gạch, ngói, gỗ do ông T8 lấy từ công T4 của cụ Hồng để sửa nhà thì thấy: Các tài sản này hiện không còn tài liệu, chứng cứ chứng minh giá trị tài sản; nguyên đơn cũng không chứng minh được năm 1981 ông T8 lấy nguyên vật liệu từ nhà cũ của cụ Hồng để làm nhà mới; tại thời điểm ông T8 bà V tháo dỡ nhà cũ và làm nhà mới thì cụ Hồng vẫn còn sống, cụ Hồng không có ý kiến gì
về việc này. Hơn nữa, các công T4 của cụ Hồng được xây dựng đã lâu, giá trị sử dụng không còn. Tòa án đã T8 hành định giá tài sản nhưng do tài sản không còn từ những năm 1980 nên không thể định giá được.
Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện này của đồng nguyên đơn.
[3] Yêu cầu của bị đơn:
[3.1] Về việc đổi ruộng % lấy đất ở của gia đình ông T8: Tòa án đã Tiến hành làm việc với ông Nguyễn Hải Băng
– Trưởng xóm Bống năm 1989, cho biết: Ông là người trực tiếp thực hiện việc chia ruộng % cho các hộ gia đình của xóm, tiêu chuẩn chia ruộng như sau: Đất thổ cư cha ông để lại là 240m2 trên 1 hộ gia đình, nếu quá diện tích 240m2 thì bị trừ vào ruộng % ngoài đồng theo tỷ lệ 1m2 rau xanh (ruộng %) = 1,5m2 đất ở. Chủ trương chia ruộng % như trên được áp dụng và thực hiện trên toàn huyện TT. Riêng đối với hộ ông T8
có 4 khẩu, được chia ruộng % diện tích 336m2. Do diện tích đất ở của hộ ông T8 khi đó vượt quá hạn mức nên đã chia cho hộ ông T8 diện tích ruộng % là 292m2, trừ 44m2 ruộng % vào đất ở thừa. Tại sổ ghi chép theo dõi việc chia ruộng do Tòa án T2 thập được thể hiện hộ ông T8 được giao 292m2 đất ruộng %. UBND xã Gia Đông xác định: Năm 1988
– 1989, địa phương có thực hiện chính sách chia ruộng % trên địa bàn xã Gia Đông, mỗi khẩu được 84m2 (3,5 thước). Thời kỳ đó theo quy định, mỗi hộ gia đình được sử dụng diện tích đất ở 240m2. Nếu hộ gia đình nào vượt quá thì sẽ bị trừ đất ruộng % (đấtrau xanh) theo tỷ lệ 1,5m2 đất ở bằng 1m2 đất %. Đối với hộ gia đình ông T8, hiện nay địa phương,
UBND xã Gia Đông không còn lưu giữ hồ sơ sổ sách liên quan đến việc trừ đất ruộng % nên số liệu cụ thể không thể cung cấp cho Tòa án. Năm 1992 thực hiện chia ruộng ổn định lâu dài cho các hộ theo chỉ đạo, UBND xã chỉ đạo các thôn chia ruộng cho các hộ trong đó giữ ổn định ruộng % (không chia lại) và chuyển số ruộng % thành ruộng canh tác ổn định cho các hộ. Và T8 hành lập sổ bộ sơ đất nông nghiệp chung cho các hộ sử dụng từ đó đến nay. Đối với hồ sơ chia ruộng % đối với các hộ dân trên địa bàn xã Gia Đông thì UBND không lưu trữ. Với những chứng cứ trên có căn cứ xác định hộ ông T8 đã bị trừ đất ruộng % để lấy đất ở theo tỷ lệ quy đổi là: (44m2 đất ruộng x 1,5) = 66m2 đất ở. Do đó trong số diện tích đất ở của thửa số 312 có 66m2 đất do gia đình ông T8 bị trừ đất ruộng %.
[3.2] Công sức quản lý, duy trì, tạo thửa đất của bà V và gia đình ông T8:
Tại phiên tòa sơ thẩm năm 2018, bị đơn không yêu cầu trích chia công sức quản lý,duy trì,tân tạo của bị đơn đối với thửa đất số 312 nên bản án sơ thẩm bị
hủy (do vượt quá yêu cầu khởi kiện). Nay bị đơn có yêu cầu chia công sức nên cần chấp nhận yêu cầu này của bị đơn. Theo các đương sự thì năm 1960 cụ Hồng chuyển sang sinh sống ở thửa đất khác. Bà V cùng các con là bà T8, ông T6 và ông T8 đã sử dụng thửa đất từ năm 1960. Sau khi bà T8 và ông T6 đi công tác thì từ năm 1978 đến năm 1986, thửa đất do bà V và ông T8 quản lý sử dụng. Năm 1986, ông T8 kết hôn
với bà Nguyễn Thị Thủy H1 thì thửa đất do bà V và vợ chồng ông T8 cùng quản lý, sử dụng. Như vậy, từ khi cụ Hồng chết (năm 1983), thửa đất vẫn được bà V và ông T8 quản lý, sử dụng cho đến nay. Năm 1991 (thời điểm ông T8 được cấp GCNQSD đất) đến năm 2010 không có ai tranh chấp đất với ông T8. Dù ông T8 không phải là con cháu cụ Hồng nhưng ông đã lớn lên và sinh sống trên thửa đất của các cụ để lại, từ khi ông sinh ra cho đến khi cụ Hồng chết thì cụ Hồng vẫn để cho mẹ con ông sinh sống, quản lý và sử dụng thửa đất. Nếu như không muốn cho cụ V, ông T8 sử dụng thửa đất thì khi còn sống cụ Hồng cùng các con cháu phải tranh chấp, không cho bà V, ông T8 ở. Nhưng trước và sau khi cụ Hồng chết bà V, ông T8 vẫn ở, cũng như quản lý, sử dụng thửa đất này mà con cháu cụ Hồng không ai phản đối. Năm 2006, vợ chồng ông T8 mua đất khác làm nhà để ở nhưng thửa đất số 312 vẫn được bà V và ông T8 quản lý cho đến năm 2010 (khi các bên bắt đầu xảy ra tranh chấp đòi thửa đất để làm nhà thờ). Năm 1986, ông T8 kết hôn với bà H1
và vợ chồng cùng sinh sống trên thửa đất cho đến năm 2006. Như vậy, bà V và gia đình ông T8 đã có thời gian rất dài sinh sống ổn định trên đất, có công sức quản lý, tân tạo sử dụng thửa đất nên cần trích chia một phần giá trị thửa đất cho bà V và gia đình ông T8 100m2 đất (bà V 50m2, gia đình ông T8 50m2) như bản án sơ thẩm số 16/2018/DSST ngày 29/8/2018 của TAND tỉnh BN đã giải quyết là phù hợp.
[3.3] Đối với phần diện tích ngõ đi: Đồng nguyên đơn yêu cầu vợ chồng ông T8 trả lại 5,6m2 đất mà ông T8 đã cho 11 hộ dân làm đường mở rộng ngõ vào năm 2013. Theo kết quả đo đạc hiện tại diện tích đã cho ngõ đi là 10,4m2. Phần diện tích đất này là một phần của thửa đất số 312 nên yêu cầu này của phía nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận. Quá T4 giải quyết vụ án, bà Thấn cung cấp cho Tòa án biên bản họp gia đình thể hiện bà V, bà T8, ông T6 và ông T8 đồng ý về việc mở rộng ngõ đi. Tuy nhiên sau đó ông T6 có đơn bãi nại không đồng ý với nội dung của cuộc họp này nên phần diện tích lối đi là 10,4m2 sẽ được đối trừ với phần giá trị tài sản bà V và ông T8 được hưởng.
[4] Về diện tích của thửa đất số 312: Theo giấy chứng nhận QSDĐ là 314m, theo bản đồ đo đạc năm 2004 là 342m2, theo hiện trạng là 331,6m2 (không tính diện tích đã cho mở rộng ngõ đi). Như đã phân tích tại mục
[3.1] , thửa đất có một phần đất là do gia đình ông T8 đổi 44m2 ruộng % lấy 66m2 đất ở nên gia đình ông T8 được quản lý sử dụng 66m2 đất này, cộng với diện tích được trích chia công sức đóng góp 50m2, tổng là 116m2. Đối với 50m2 trích chia công sức cho bà V: Theo ý nguyện của bà V thì tài sản bà được hưởng bà cho ông T8, không cho ai khác, nên phần diện tích này được giao cho ông T8. Sau khi đối trừ phần diện tích đã cắt cho ngõ đi là 10,4m2, gia đình ông T8 được chia diện tích 155,6m2 đất của thửa đất số 312. Phần diện tích đất còn lại là 176m2 được giao cho đồng nguyên đơn quản lý, sử dụng. Các đương sự liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo quy định. Ngày 16/9/2022, theo yêu cầu của bị đơn, tòa án đã T8 hành đo đạc, thẩm định, định giá tài sản lại thì các tài sản trên đất đều đã cũ nát và không còn giá trị, cây cối trên đất đều là cây ăn quả ngắn ngày. Vì vậy, tài sản tranh chấp trong vụ án chỉ là giá trị QSDĐ thửa đất số 312, ngoài ra không còn gì khác.
[5] Đối với đơn yêu cầu của bà V đề nghị xem xét ô ng T8 là con của bà với cụ Nguyễn Văn Hồng, trong quá T4 giải quyết vụ án thì bà V chết. Ông T8 có đơn yêu cầu Tòa án T8 hành giám định. Tại phiên tòa sơ thẩm năm 2018, ông T8 rút yêu cầu này nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Bà Thấn, ông T6 yêu cầu ông T8 trả số tre, gỗ ông T8 đã lấy làm nhà từ năm 1981: Trong quá T4 giải quyết vụ án, ông T8 chỉ thừa nhận có lấy 10 cây tre ngâm về làm nhà và ông đã đổi chiếc xe đạp nhưng phía người liên quan không thừa nhận việc đổi xe và ông T8 cũng không có căn cứ chứng minh. Do đó cần chấp nhận một phần yêu cầu của ông T6, bà Thấn. Buộc ông T8 phải trả ông T6 , bà Thấn giá trị 10 cây tre theo kết quả định giá là 850.000đ. Anh Nguyễn Đức Nhật T4 bày anh có đóng góp cho bố mẹ số tiền 15.000.000đ trong quá
T4 cải tạo nhà, các công T4 phụ và tân tạo thửa đất số 312. Xét thấy, anh Nhật đã ủy quyền cho ông T8 (ông T8 đã có đơn rút yêu cầu đòi 15.000.000đ này) và phần công sức này đã được tính chung cho gia đình ông T8 nên không tính riêng cho anh Nhật nữa. Bà T8 là con của ông Tài và bà V đã từ chối không tham gia vào quá T4 giải quyết vụ án và không yêu cầu gì về quyền lợi của bà trong vụ án này; đại diện các hộ dân trong ngõ ông Nguyễn Văn Sinh, ông Nguyễn Văn Vinh, bà Nguyễn Thị Thiêm, bà Lưu Thị Lâm, ông Vương Đình Nghị, ông Nguyễn Văn Khải, ông Phạm Minh Chuyên, ông Cao Văn Sơn, bà Vương Thị Đạo, ông Nguyễn Văn Viện, bà Nguyễn Thị Vân đã từ chối không tham gia vào quá T4 giải quyết vụ án và không yêu cầu gì về quyền lợi của các hộ trong vụ án này nên Toà án không xem xét.
[6] Đối với Di chúc của bà Nguyễn Thị V: Ngày 15/3/2007, bà V lập 01 bản di chúc có xác nhận của UBND xã Gia Đông. Đến ngày 25/01/2013 bà V thay đổi và xác lập 01 bản di chúc khác, có 2 người làm chứng và được công chứng tại Văn phòng luật sư Đức Thịnh. Tại bản di chúc này, bà V để lại toàn bộ thửa đất số 312 cho vợ chồng ông T8, bà H1 được hưởng. Như đã phân tích tại mục [2.2] , do thửa đất số 312 có nguồn gốc là của cụ Hồng nên việc bà V tự định đoạt toàn bộ thửa đất này là không đúng đối Tượng, hơn nữa thời điểm bà V lập di chúc thì giấy chứng nhận QSDĐ đang mang tên ông T8 , nên di chúc này không hợp pháp.

[7] Án phí:

Do đồng nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

[8] Lệ phí:
Do yêu cầu của đồng nguyên đơn được chấp nhận nên không phải chịu chi phí đo đạc, thẩm định, định giá tài sản.

Bị đơn phải chịu toàn bộ chi phí đo đạc, thẩm định định giá tài sản gồm: Ngày 15/6/2012 là 3.000.000đ, ngày 02/4/2014 là 2.100.000đ, ngày 18/8/2015 là 2.000.000đ, ngày 16/9/2022 là 10.000.000đ, tổng cộng là 17.100.000đ. Do bà Nguyễn Thị Thấn đã nộp 7.100.000đ tạm ứng lệ phí (Ngày 15/6/2012 là 3.000.000đ, ngày 02/4/2014 là 2.100.000đ, ngày 18/8/2015 là 2.000.000đ) nên ông Nguyễn Văn T8, bà Nguyễn Thị Thủy

H1 phải trả lại bà Nguyễn Thị Thấn 7.100.000đ.

Liên hệ ngay với chúng tôi nếu bạn đang cần hỗ trợ pháp lý, hãy liên hệ ngay với Công ty Luật Việt Nguyên ngay bây giờ để được tư vấn và giải quyết vướng mắc pháp lý liên quan đến kiện đòi tài sản một cách chuyên nghiệp và hiệu quả nhất. Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và cung cấp cho bạn những giải pháp, pháp lý tốt nhất để đảm bảo quyền lợi của bạn.

Kết nối với Việt Nguyên – An tâm vững bước
Liên hệ ngay để được tư vấn 1:1 cùng chuyên gia:

📞 Hotline: 0936.39.29.79 – 0937.67.69.69

📍 Trụ sở chính: Số 41 Cách Mạng Tháng Tám, P. Xuân An, TP. Long Khánh, T. Đồng Nai.

📍 Chi nhánh: Số 23 Nguyễn Du, P. Bửu Long, TP. Biên Hòa, T. Đồng Nai.

📘 Facebook: Công ty Luật Việt Nguyên

🌐 web: https://luatsudongnai.org/

✉️ Email: luatsutrangiap@gmail.com | 💬 Zalo: 0937.67.69.69 – 0936.39.29.79

Việt Nguyên – Nơi công lý được hiện thực hóa bằng tâm huyết và tri thức!