DỰ THẢO ÁN LỆ SỐ 18/20241
ÁN LỆ SỐ …/2024/AL
Về việc xác định giá đất để làm căn cứ bồi thường khi thu hồi đất Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào ngày tháng năm 2024 và được công bố theo Quyết định số /QĐ-CA ngày tháng
năm 2024 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ: Bản án hành chính phúc thẩm số 427/2019/HC-PT ngày 09/7/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về việc “khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất” giữa Người khởi kiện là ông Trần Văn H; Người bị kiện là UBND tỉnh B và UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương.
Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 6 và 7 phần “Nhận định của Tòa án”
Khái quát nội dung án lệ:
– Tình huống án lệ:
Cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi đất, nhưng chậm công bố và giao các quyết định này cho người bị thu hồi đất. Tại thời điểm công bố và giao các quyết định này cho người bị thu hồi đất thì giá đất đã có sự thay đổi, nên người bị thu hồi đất không đồng ý với giá đất bồi thường tại thời điểm ban hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường.
– Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, Tòa án phải xác định giá đất để làm căn cứ bồi thường cho người bị thu hồi đất là giá đất tại thời điểm thu hồi đất. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
– Điều 11, khoản 2 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ …..
– Khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường…. ………
Từ khóa của án lệ:
“Quyết định thu hồi đất”, “Xác định giá đất để tính bồi thường cho người bị thu hồi đất”…
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1 Án lệ này do Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, Tòa án nhân dân tối cao đề xuất. Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện và người khởi kiện ông Trần Văn H trình bày:
Gia đình ông Trần Văn H bị thu hồi 2.899 m2 đất trong công trình BOT ĐT- 747B đoạn đi xã Khánh Bình (nay là phường K) huyện T (nay là thị xã T). Đoạntừ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên – Cổng Xanh được triển khai thực hiện từ năm 2010. Tại buổi làm việc đầu tiên ngày 18/12/2014 ông Trần Văn H đã không đồng ý với yêu cầu nhận tiền bồi thường, bàn giao cho ông Trần Văn H các văn bản như sau:
– Quyết định số: 9858/QĐ-UBND, ngày 03/10/2012 của UBND huyện T (nay thị xã T) về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B từ đoạn nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên – Cổng Xanh. – Quyết đinh số: 10492/QĐ-UBND, ngày 16/10/2012 về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P, ngụ tại khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Ông Trần Văn H không đồng ý nhận tiền bồi thường, do Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T thực hiện việc giải tỏa, bồi thường đối với 2.899,2m2 đất của ông Trần Văn H trái các quy định của pháp luật về giải tỏa, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Ngày 24/12/2014, ông H có đơn khiếu nại việc áp giá bồi thường, hỗ trợ đối với 2.899,2 m2 đất của ông H đến UBND thị xã T. Ngày 10/4/2015, Trung tâm phát triển đất thị xã T tiến hành đối thoại giải quyết các nội dung khiếu nại của ông Trần Văn H; ngày 29/5/2015 UBND thị xã T ban hành Công văn số: 3131/UBND-TD trả lời đơn của ông Trần Văn H với cùng kết luận như kết quả đối thoại là Trung tâm phát triển quỹ đất đã bồi thường, hỗ trợ với diện tích 2.899,2m2 đất của ông H bị thu hồi là đúng theo quy định, cụ thể:
Đối với ý kiến tại sao đến nay, hơn 2 năm kiểm kê, mới đưa quyết định bồi thường và bảng áp giá cho ông Trần Văn H, trong khi Quyết định có ghi rõ ông Trần Văn H có quyền khiếu nại trong vòng 90 ngày: Việc này nguyên nhân do từ tháng 10/2012 đến tháng 11/2014 nguồn vốn phân bố cho Dự án không đủ để chitrả bồi thường cho dân nên không mời ông Trần Văn H đến để giao quyết định và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ. Về thời hiệu khiếu nại theo khoản 3 Điều 2 Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T có quy định ông Trần Văn H và bà Hà Thị P có quyền khiếu nại quyết định này trong thời hạn 90 (chín mươi) ngày kể từ ngày nhận quyết định. Ông Trần Văn H đã nhận quyết định bồi thường vào ngày 18/12/2014. Theo đó, thời hiệu khiếu nại Quyết định số 14092/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 được tính từ ngày ông Trần Văn H ký nhận quyết định số 10492/QĐ-UBND (ngày 18/12/2014).
Về trình tự, thủ tục thu hồi và bồi thường, hỗ trợ Trung tâm Phát triển quỹ đất đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 46 và Điều 47 Quyết định số: 87/2009/QĐ-UBND ngày 21/12/2009 của UBND tỉnh B. Trong quá trình thực hiện Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T đã phối hợp với UBND phường K tổ chức họp công khai Phương án bồi thường, niêm yết công khai phương án bồi thường. Ông Trần Văn H đề nghị thẩm định lại giá đất, thẩm định lại Phương án bồi thường, hỗ trợ số: 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012, nhưng đến ngày 18/12/2014 mới giao cho ông là không có căn cứ để xem xét giải quyết vì phương án bồi thường, hỗ trợ được phê duyệt tại Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện (nay là thị xã) được niêm yết công khai đúng trình tự, thủ tục; đơn giá bồi thường, hỗ trợ trong phương án bồi thường được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên – Môi trường “.. giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm…”.
Đối với ý kiến nếu không thể điều chỉnh giá đất theo giá thị trường, đề nghị chủ đầu tư và chính quyền địa phương có phương án đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và có giá trị tương đương: Theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định “Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất”. Do địa phương không có quỹ đất để bồi thường nên các hộ dân có đất bị thu hồi để thực hiện công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên – Cổng Xanh được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo đất tại thời điểm thu hồi đất. Ông Trần Văn H đề nghị đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và có giá trị tương đương là không thực hiện được. Ông Trần Văn H không đồng ý với kết quả giải quyết của UBND thị xã T tại Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 trả lời đơn khiếu nại và đề nghị của ông Trần Văn H như nêu trên bằng quyết định giải quyết khiếu nại. Ngày 06/9/2016, ông Trần Văn H khiếu nại Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T nêu trên, yêu cầu: Hủy bỏ công văn số 3131/UBND- TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T về việc trả đơn của ông Trần Văn H; Yêu cầu UBND thị xã T giao Quyết định thu hồi đất cho ông Trần Văn H theo đúng trình tự quy định pháp luật; hủy Quyết định số 10492/QĐ- UBND, ngày 16/10/2012 của UBND huyện T (nay thị xã T) về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và xác định lại giá đất bồi thường theo giá đất thị trường tại thời điểm UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất cho ông Trần Văn H (giá đất bồi thường tại thời điểm thu hồi đất) hoặc hoán đổi đất khác có cùng vị trí, mục đích sử dụng và giá trị tương đương. Ngày 30/12/2015, Chủ tịch UBND thị xã T ban hành quyết định 6465/QĐ- UBND bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H, giữ nguyên Công văn số 3131/UBND-TD, ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T và Quyết định số 10492/QĐ-UBND, ngày 16/10/2012 của UBND huyện T (nay thị xã T) về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, với nội dung: Về trình tự, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ: UBND thị xã T đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 46 và Điều 47 Quyết định số 87/2009/QĐ- UBND ngày 21/12/2009 của UBND tỉnh B. Trong quá trình thực hiện ban ngành thị xã T đã phối hợp với UBND xã K tổ chức hợp dân công khai phương án bồi thường, niêm yết công khai phương án bồi thường đúng theo quy định. Về đơn giá bồi thường, hỗ trợ: Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao với đường Thủ Biên – Cổng Xanh (Đợt 1: Đoạn từ cầu Khánh Vân đến khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã K, huyện T, tỉnh Bình Dương). Trong đó, quy định đơn giá bồi thường, hỗ trợ về đất áp dụng theo Quyết định số 66/2011/QĐ-UBND ngày 20/12/2011 ban hành quy định bản giá các loại đất năm 2012 và Quyết định số 67/2011/QĐ-UBND ngày 20/11/2011 của UBND tỉnh Bình Dương ban hành hệ số điều chỉnh giá đất (K) năm 2012 trên địa bàn tỉnh
Bình Dương. Những đoạn nắn tuyến có phạm vi giải tỏa ngoài 19m (tính từ tim đường), đối với đất nông nghiệp được hỗ trợ bằng 70% giá đất ở theo Công văn số 492/UBND-KTN. Theo đó, đơn giá bồi thường đất trồng cây lâu năm cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P là: 168.000 đồng/m2 , hỗ trợ đất nông nghiệp thửa đất số 68 bằng 70% đơn giá đất ở với diện tích 521,5m2, hỗ trợ đất nông nghiệp bằng50% đơn giá đất ở với diện tích: 875,5m2, hỗ trợ nắn tuyến bằng 70% đơn giá đất ở với diện tích 103m2, tổng phân tích hỗ trợ bằng 05 lần hạn mức giao đất ở (5 lần x 300 m2 = 1500 m2) đúng theo phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được phê duyệt tại Quyết định số: 9858/QĐ-UBND.
Đối với nội dung ông Trần Văn H yêu cầu trao đổi đất khác có cùng vị trí, mục đích sử dụng và giá trị tương đương: do là dự án nâng cấp, mở rộng đường (ĐT 747B) nên diện tích các hộ dân bị ảnh hưởng nhỏ, phần diện tích còn lại đảm bảo xây dựng nhà ở, tái thiết cuộc sống và số lượng các hộ dân giải tỏa trắng hết đất là rất ít. Do đó, công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đển điểm giao với đường Thủ Biên – Cổng Xanh được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất thời điểm quyết định thu hồi đất là đúng theo quy định tại khoản 2, Điều 14 Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ. Không đồng ý với việc UBND thị xã T giải quyết khiếu nại trên, ngày 07/02/2017 ông Trần Văn H khiếu nại Quyết định số 6546/QĐ-UBND ngày 30/12/2016 của Chủ tịch UBND thị xã T đến Chủ tịch UBND tỉnh B. Ngày 11/10/2017, Chủ tịch UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H với nội dung:
Việc ông Trần Văn H yêu cầu bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, là không có cơ sở xem xét, giải quyết vì: Dự án Công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên – Cổng Xanh được UBND tỉnh phê duyệt Dự án tổng thể tại Quyết định số 2998/QĐ-UBND ngày 13/10/2011 trên cơ sở Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ, không quy định phải bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, chỉ quy định gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người có đất bị thu hồi. Tuy nhiên, để đảm bảo tính công khai, minh bạch và thông tin đến
cho người dân, cơ quan chức năng của UBND huyện T cũng đã 02 lần mời ông Trần Văn H, bà Hà Thị P đều không đến và UBND xã K đã lập Biên bản, niêm yết công khai danh sách các hộ bị thu hồi đất, kèm theo quyết định thu hồi đất tại trụ sở UBND xã K. Về nội dung ông Trần Văn H yêu cầu bồi thường 2028,2 m2 đất theo giá thị trường tại thời điểm UBND thị xã T bàn giao quyết định thu hồi đất hoặc hoán đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và vị trí tương đương là không có cơ sở xem xét, giải quyết vì: UBND huyện T đã áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P đúng theo phương án bồi thường, hỗ trợ mà UBND huyện T phê duyệt tại Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 và trong phương án trên cũng không quy định về việc hoán đổi đất, hơn nữa địa phương cũng không có quỹ đất để hoán đổi. Việc UBND thị xã T thực hiện các thủ tục giải tỏa, bồi thường đối với quyền sử dụng đất của ông Trần Văn H và UBND tỉnh B, UBND thị xã T giải quyết khiếu nại của ông Trần Văn H là trái pháp luật, cụ thể:
Về trình tự thủ tục giải tỏa, bồi thường:
Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên thực hiện không đúng theo các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục bồi thường, cụ thể:
Căn cứ các Điều 30, 31 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; Điều 46, 47 Quyết định số 87/2009/QĐ-UBND ngày 21/12/2009 của UBND tỉnh B về chính sách, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bình Dương quy định về việc lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và quyết định thu hồi đất, phê duyệt, thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì đều quy định trước khi phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được gửi đến Cơ quan tài nguyên và Môi trường thẩm định, thì phải được tổ chức
làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức công bố, niêm yết công khai để người bị thu hồi đất và những người có liên quan tham gia ý kiến để hoàn chỉnh phương án. Sau khi Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được phê duyệt thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được phương án tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp với UBND cấp xã phổ biến và niêm yết công khai quyết định phê duyệt phương án bồi thường tại trụ sở UBND cấp xã và địa điểm sinh hoạt khu dân cư nơi có đất bị thu hồi; gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người có đất
bị thu hồi, trong đó nêu rõ về mức bồi thường, hỗ trợ, về bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có), thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và thời gian bàn giao đất đã bị thu hồi cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng. Tuy nhiên, từ khi dự án triển khai năm 2011 đến ngày 18/12/2014 ông Trần Văn H mới được mời để yêu cầu nhận tiền bồi thường là hơn hai năm, ngoài ra ông Trần Văn H không được Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên, UBND xã K (nay phường K) hay bất kỳ cơ quan có thẩm quyền nào thông báo ông Trần Văn H đến để công bố dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư đã được phê duyệt, cũng như nhận các quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, để ông Trần Văn H biết được quyền sử dụng đất của mình được giải tỏa, bồi thường như thế nào để bảo vệ quyền lợi của mình, thực hiện chủ trương chung của địa phương, trong khi theo các quy định của pháp luật nêu trên đều quy định ông Trần Văn H được thực hiện quyền của người có đất bị thu hồi là tham gia ý kiến đối với phương án bồi thường hỗ trợ và tái định cư, được phổ biến phương án bồi thường hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt, được nhận quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày phương án bồi thường được phê duyệt. Quyết định 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2016 của Chủ tịch UBND thị xã T; Quyết định 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết khiếu nại lại trả lời ông Trần Văn H là đã mời ông Trần Văn H đến UBND xã K để công bố và bàn giao Quyết định thu hồi đất theo giấy mời số 112/GM-TN&MT tuy nhiên ông Trần Văn H không đến nên lập biên bản niêm yết. Việc Chủ tịch UBND thị xã T, Chủ tịch UBND tỉnh B đã trả lời như trên là hoàn toàn dối trá, ông Trần Văn H vô cùng bức xúc vì tại Công văn 3131/UBND- TD ngày 29/5/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T và qua các lần làm việc đối thoại trước đó ngày 10/4/2015 ghi nhận rất rõ ràng lý do quyết định bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H được phê duyệt tháng 10/2012 nhưng đến ngày 18/12/2014 mới tổ chức mời ông Trần Văn H nhận quyết định và nhận tiền bồi thường là do từ tháng 10/2012 đến tháng 11/2014 nguồn vốn phân bổ cho dự án không đủ để chi trả bồi thường cho dân nên không mời ông Trần Văn H đến để giao quyết định và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ………………
……………………..
Do đó, ông Trần Văn H khởi kiện Ủy ban nhân dân thị xã T đến Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, với yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:
– Hủy quyết định 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T, tỉnh Bình Dương về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên – Cổng Xanh (đợt 1: đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã (nay phường) K, huyện (nay thị xã) T, tỉnh Bình Dương;
– Hủy Quyết định số: 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc thu hồi đất;
– Hủy Quyết định số: 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư;
– Hủy Công văn số: 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc trả lời đơn của ông Trần Văn H;
– Hủy Quyết định 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 1);
– Hủy Quyết định 2731/QĐ-UBND ngày ^ 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 2).
Nội dung bản án: bản án Giá đất thu hồi ở thời điểm ban hành QĐ và thời điểm thu hồi
Nguồn: Congbobanan.vn
Liên hệ ngay với chúng tôi nếu bạn đang cần hỗ trợ pháp lý, hãy liên hệ ngay với Công ty Luật Việt Nguyên ngay bây giờ để được tư vấn và giải quyết vướng mắc pháp lý liên quan đến kiện đòi tài sản một cách chuyên nghiệp và hiệu quả nhất. Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và cung cấp cho bạn những giải pháp, pháp lý tốt nhất để đảm bảo quyền lợi của bạn.
Kết nối với Việt Nguyên – An tâm vững bước
Liên hệ ngay để được tư vấn 1:1 cùng chuyên gia:
📞 Hotline: 0936.39.29.79 – 0937.67.69.69
📍 Trụ sở chính: Số 41 Cách Mạng Tháng Tám, phường Long Khánh, T. Đồng Nai.
📍 Chi nhánh: Số 23 Nguyễn Du, P. Trấn Biên, T. Đồng Nai.
📘 Facebook: Công ty Luật Việt Nguyên
🌐 web: https://luatsudongnai.org/
✉️ Email: luatsutrangiap@gmail.com | 💬 Zalo: 0937.67.69.69 – 0936.39.29.79
Việt Nguyên – Nơi công lý được hiện thực hóa bằng tâm huyết và tri thức!
