Nhận Định Của Tòa Án Trong Vụ Án Phúc Thẩm Về Tranh Chấp Quyền Sở Hữu Nhà Đất
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về Tố Tụng
-
Đơn kháng cáo của các đồng nguyên đơn: ông Võ Văn K, bà Võ Thị Ngọc O, ông Võ Văn T, bà Võ Thị Diệp H, bà Võ Thị Nguyệt H1, ông Võ Văn P là trong hạn, hợp lệ nên được xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
-
Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh rút toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng. Căn cứ vào Điều 289 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với kháng nghị nêu trên.
-
Xét thấy, khi thụ lý, giải quyết, Tòa án cấp sơ thẩm có một số vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, như sau:
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (QSDĐ, QSHNƠ) số CV036510 ngày 17/4/2020 do UBND thành phố Đà Lạt cấp cho ông Võ Văn T1 tại trang 4 đã được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đà Lạt chỉnh lý biến động cho bà Trần Thị V, anh Võ Văn Trọng N, chị Võ Thị Vân A được quyền sử dụng, sở hữu nhà đất tại số A Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt. Các nguyên đơn yêu cầu hủy Giấy chứng nhận QSDĐ, QSHNƠ nêu trên, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Lâm Đồng vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
- Các nguyên đơn ban đầu yêu cầu hủy Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được ký kết ngày 01/12/2021 giữa bà V, anh N, chị Vân A với Ngân hàng thương mại cổ phần Đ3 – Chi nhánh L2 thế chấp nhà đất tại số A Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt. Nhưng sau đó bà V, anh N, chị Vân A đã trả tiền vay cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ3 – Chi nhánh L2 nên hai bên đã thanh toán hết Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp. Ngày 20/4/2023, bà V, anh N, chị Vân A ký Hợp đồng thế chấp cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ2 – Chi nhánh L2 nhà đất tại số A Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt. Các nguyên đơn đã thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện: Rút yêu cầu hủy Hợp đồng thế chấp với Ngân hàng thương mại cổ phần Đ3; khởi kiện bổ sung yêu cầu hủy Hợp đồng thế chấp với Ngân hàng thương mại cổ phần Đ2, nhưng khi giải quyết, Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu đã rút nêu trên.
- Phần quyết định của Bản án sơ thẩm tuyên: “Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn K, bà Võ Thị Ngọc O, bà Võ Thị Diệp H, ông Võ Văn T, bà Võ Thị Nguyệt H1, ông Võ Văn P về việc “Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho; yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp” đối với ông Võ Văn T1” nhưng không tuyên cụ thể là không chấp nhận yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Hợp đồng tặng cho và Hợp đồng thế chấp nào.
-
Xét các thiếu sót trên của Tòa án cấp sơ thẩm là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được.
Về Nội Dung
-
Tại phiên tòa phúc thẩm, các nguyên đơn bị đơn trình bày như sau: Cha của các nguyên đơn và bị đơn là cụ Võ Văn T4. Cụ T4 có 03 người vợ và 18 người con. Cụ thể như sau:
- Vợ thứ nhất: Năm 1920, cụ Võ Văn T4 sống chung như vợ chồng với cụ Phạm Thị D, sinh được 08 người con, gồm: Võ Văn Q (chết từ nhỏ); Võ Văn K1 (chết từ nhỏ); Võ Văn T5 (chết từ nhỏ); Võ Văn S1 (chết từ nhỏ); Võ Thị C (chết 2014, có chồng là Nguyễn C1 và 05 người con); Võ Thị Đ1 (chết 1994); Võ Văn T6 (chết 2009, có vợ Mai Thị B và 06 người con); Võ Đức T8 (Võ Văn T9, chết 1996, có vợ Nguyễn Thị S2 và 05 con).
- Vợ thứ hai: Năm 1926, cụ T4 sống chung như vợ chồng với cụ Trần Thị E. Cụ T4 và cụ E không có con. Do không có con nên sau này cụ T4 lấy cụ Nữ sinh được 09 người con. Trong đó có bà Võ Thị Ngọc O (sinh 1952). Cụ T4, cụ D và cụ N3 thống nhất ghi trong Giấy khai sinh O là con ruột của cụ E.
- Vợ thứ ba: Năm 1936, cụ T4 sống chung như vợ chồng với cụ Lê Thị N3, có 09 người con: Võ Văn C4 (chết 1970, không vợ con); Võ Thị Tùng L1 (chết từ nhỏ); Võ Văn C5 (chết 1981, không vợ con); Võ Văn K (sinh 1949); Võ Thị Diệp H (sinh 1953); Võ Văn T (sinh 1955); Võ Thị Nguyệt H1 (sinh 1957); Võ Văn P (sinh 1960); Võ Văn T1 (sinh 1964).
Căn nhà tọa lạc tại số A Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt nguyên đơn và bị đơn đều xác định là tài sản chung do cụ T4 và cụ N3 tạo lập. Ngoài ra, 02 cụ còn có 01 nhà đất tại xã H, thành phố H và căn nhà tại số A Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt. Năm 1969 cụ T4 chết; Năm 1979 cụ D chết; Năm 1988 cụ E chết; Năm 1989 cụ N3 chết, đều không để lại di chúc.
Ngày 27/8/1993, ông K, bà O, bà Diệp H, ông T, bà Nguyệt H1, ông P đã lập “Biên bản thỏa thuận nhượng quyền hưởng di sản thừa kế” và “Giấy chứng nhận nhượng quyền hưởng di sản thừa kế” ngày 11/9/1993 do Phòng Công chứng số 10, tỉnh Lâm Đồng công chứng để nhượng quyền hưởng di sản thừa kế cho ông T1 được hưởng di sản là căn nhà số A Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt.
Năm 2007, do có tranh chấp với ông T6 nên bà O, ông T, bà Diệp H, bà Nguyệt H1, ông P và ông T1 đã khởi kiện bị đơn ông T6 về chia tài sản chung đối với nhà đất tại xã H, thành phố H và căn nhà tại số A Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 37/2007/DSST ngày 23/7/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, đã định chia tài sản chung là căn nhà tại xã H, thành phố H và căn nhà tại số A Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt cho các thừa kế của cụ T4, cụ D, cụ N3. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số: 149/2007/DSST ngày 28/9/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, đã tuyên hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án vì lý do hết thời hiệu khởi kiện chia tài sản chung.
Ngày 24/9/2010, bà O đến Văn phòng Công chứng số 8 tỉnh Lâm Đồng đề nghị hủy bỏ “Biên bản thỏa thuận nhượng quyền hưởng di sản thừa kế” ngày 27/8/1993 và “Giấy chứng nhận nhượng quyền hưởng di sản thừa kế” ngày 11/9/1993 đã lập, nhưng do ông T1 không đồng ý nên không hủy bỏ được. Sau đó bà O đã khởi kiện Văn phòng Công chứng số 8 tỉnh Lâm Đồng đề nghị Tòa án hủy bỏ “Biên bản thỏa thuận nhượng quyền hưởng di sản thừa kế” ngày 27/8/1993. Sau đó, bà O đã rút yêu cầu khởi kiện trên để về tự anh em trong gia đình giải quyết. Tại Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số: 211/2018/QĐST-DS ngày 08/8/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt đã đình chỉ giải quyết vụ án và tuyên quyền khởi kiện lại theo khoản 1 Điều 218 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Ngày 17/4/2020 UBND thành phố Đà Lạt căn cứ “Biên bản thỏa thuận nhượng quyền hưởng di sản thừa kế” ngày 27/8/1993 và “Giấy chứng nhận nhượng quyền hưởng di sản thừa kế” ngày 11/9/1993 để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất (Giấy chứng nhận QSDĐ, QSHNƠ) số CV 036510 cho ông Võ Văn T1 đối với nhà đất tại số A Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt.
Ngày 27/9/2021, ông T1 lập Hợp đồng tặng cho vợ là bà Trần Thị V và con là anh Võ Văn Trọng N, chị Võ Thị Vân A đất nhà đất số A Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt, được Văn phòng Công chứng số 6 công chứng ngày 27/9/2021, số công chứng 2475, quyển số 09/2021 TP/CC-SCC/HĐGD.
Ngày 06/10/2021, bà V, anh N, chị Vân A được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đà Lạt chỉnh lý sang tên trên trang 4 Giấy chứng nhận QSDĐ, QSHNƠ số CV 036510.
Ngày 01/12/2021, bà V, anh N, chị Vân A ký Hợp đồng thế chấp nhà đất tại số A Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt để vay 2.000.000.000đ của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ3 – Chi nhánh L2. Ngày 28/12/2021, bà O đã gửi đơn khiếu nại đến UBND thành phố Đà Lạt. Ngày 28/7/2022 UBND thành phố Đà Lạt có Văn bản số: 4981/UBND-NC về việc trả lời với nội dung: Hồ sơ cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, QSHNƠ cho ông Võ Văn T1 là chưa đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn khởi kiện đề nghị Tòa án xem xét hủy Giấy chứng nhận QSDĐ, QSHNƠ nêu trên. Cùng ngày 28/7/2022 UBND thành phố Đà Lạt có Văn bản số: 4980/UBND-NC chỉ đạo Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đà Lạt “Tạm ngưng tất cả các giao dịch có liên quan đến Giấy chứng nhận QSDĐ, QSHNƠ số CV 036510 do UBND cấp ngày 17/04/2020 cho ông Võ Văn T1”.
Ngày 06/8/2022, ông K, bà O, bà Diệp H, ông T, bà Nguyệt H1, ông P khởi kiện đến Tòa án tỉnh Lâm Đồng giải quyết các yêu cầu: Hủy Giấy chứng nhận QSDĐ, QSHNƠ số CV036510 ngày 17/4/2020 do Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt cấp cho ông T1. Hủy Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, giữa ông T1 với bà V, anh N, chị Vân A được Văn phòng Công chứng số 6 công chứng ngày 27/9/2021, số công chứng 2475, quyển số 09/2021 TP/CC-SCC/HĐGD. Hủy Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được ký kết ngày 01/12/2021 giữa bà V, anh N, chị Vân A với Ngân hàng thương mại cổ phần Đ3 – Chi nhánh L2. Trong thời gian Tòa án đang thụ lý, giải quyết tranh chấp, bà V, anh N, chị Vân A đã trả tiền vay cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ3 – Chi nhánh L2 nên hai bên đã thanh lý hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp, Ngân hàng Đ3 đã trả lại Giấy chứng nhận QSDĐ, QSHNƠ cho bà V, anh N, chị Vân A.
Ngày 20/4/2023, bà V, anh N, chị Vân A tiếp tục ký Hợp đồng thế chấp nhà đất tại số A Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ2 – Chi nhánh L2 để vay 2.700.000.000đ.
Hiện nay, các nguyên đơn chỉ tranh chấp liên quan đến căn nhà đất số A Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt. Còn đối với nhà đất tại xã H, thành phố H các đương sự không tranh chấp trong vụ án này.
Căn cứ Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự, các tình tiết, sự kiện nguyên đơn trình bày nêu trên bị đơn không phản đối, nên các tình tiết, sự kiện nêu trên là sự thật nguyên đơn không cần phải chứng minh.
-
Nguyên đơn cho rằng nhà đất số A Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt, ngày 27/8/1993 các nguyên đơn có lập “Biên bản thỏa thuận nhượng quyền hưởng di sản thừa kế” và “Giấy chứng nhận nhượng quyền hưởng di sản thừa kế” ngày 11/9/1993 cho bị đơn hưởng thừa kế nhà đất trên, nhưng thực chất không phải nhượng quyền mà để cho nguyên đơn đứng tên giấy chứng nhận để làm ăn. Trước khi nguyên đơn chưa kê khai xin cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, QSHNƠ số CV036510 ngày 17/4/2020 các nguyên đơn đã có tranh chấp đối với bị đơn về “Biên bản Thỏa thuận nhượng quyền hưởng di sản thừa kế” và “Giấy chứng nhận nhượng quyền hưởng di sản thừa kế” nên bị đơn chưa được cơ quan Nhà nước công nhận quyền sử dụng, sở hữu đối với nhà đất nêu trên. Do đó, các nguyên đơn cho rằng UBND thành phố Đà Lạt cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, QSHNƠ số CV036510 ngày 17/4/2020 cho ông T1 (bị đơn) là trái pháp luật.
-
Bị đơn cho rằng các nguyên đơn đã nhượng quyền hưởng di sản của cha mẹ để lại cho bị đơn bằng “Biên bản thỏa thuận nhượng quyền hưởng di sản thừa kế” ngày 27/8/1993 và “Giấy chứng nhận nhượng quyền hưởng di sản thừa kế” ngày 11/9/1993 có công chứng. Do đó, bị đơn cho rằng việc UBND thành phố Đà Lạt cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, QSHNƠ số CV036510 ngày 17/4/2020 cho bị đơn là đúng quy định của pháp luật.
-
Xét, tính hợp pháp của Giấy chứng nhận QSDĐ, QSHNƠ số CV036510 ngày 17/4/2020 do UBND thành phố Đà Lạt cấp cho ông Võ Văn T1, thấy rằng: Nguồn gốc nhà đất số A Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt nguyên đơn và bị đơn trong vụ án đều thừa nhận là của cha mẹ là cụ T4 và cụ N3 tạo lập. Năm 1969, cụ T4 chết; Năm 1988, cụ N3 chết. Cả 02 cụ không để lại di chúc. Ngày 27/8/1993, các con của cụ T4 với cụ E và các con của cụ T4 và cụ N3, gồm: ông K; bà O, bà Diệp H, ông T, bà Nguyệt H1, ông P, ông T1 đã lập “Biên bản thỏa thuận nhượng quyền hưởng di sản thừa kế” và “Giấy chứng nhận nhượng quyền hưởng di sản thừa kế” có công chứng, thể hiện nội dung: ông K; bà O, bà Diệp H, ông T, bà Nguyệt H1, ông P từ chối hưởng di sản thừa kế, để lại cho một mình ông T1 hưởng thừa kế căn nhà số A Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt. Năm 2007 bà O, ông T, bà Diệp H, ông P, ông K và ông T1 đã khởi kiện ông T6 (là anh em cùng cha khác mẹ – con của cụ T4 và D) tranh chấp chia tài sản chung căn nhà ở thành phố H và căn nhà số A Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 37/2007/DSST ngày 23/7/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, đã tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn kiện tranh chấp Chia tài sản thuộc sở hữu chung 02 căn nhà nêu trên. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số: 149/2007/DSST ngày 28/9/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, đã tuyên hủy Bản án sơ thẩm nêu trên và đình chỉ giải quyết vụ án, do hết thời hiệu khởi kiện chia tài sản chung.
-
Cụ T4 chết năm 1969 và cụ N3 chết năm 1988 đều không để lại di chúc. Căn cứ Điều 645 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và hướng dẫn tại tiểu mục 2.4 Mục I của Nghị quyết số: 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10 tháng 8
Tải bản án đầy đủ: Bản án số: 534/2025/DS-PT

