Chia tài sản chung của vợ chồng là bất động sản trong thời kỳ hôn nhân 2023

chia tài sản chung của vợ chồng

CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG LÀ BẤT ĐỘNG SẢN TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 2014

 

chia tài sản chung của vợ chồng

Chủ thể có quyền yêu cầu Toà án chia tài sản chung vợ, chồng là bất động sản trong thời kỳ hôn nhân

Quy định pháp luật

Luật HNGĐ năm 2014 đề cao sự thoả thuận của vợ chồng khi phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhưng không có nghĩa là phủ nhận quyền yêu cầu chia tài sản chung của một bên vợ hoặc chồng. Theo khoản 3 Điều 38 Luật HNGĐ năm 2014: “Trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Toà án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59 của Luật này”. Điều này cho thấy quyền yêu cầu Toà án chia tài sản chung không chỉ được trao cho cả hai vợ chồng mà còn trao riêng cho từng cá nhân vợ hoặc chồng.

Trong trường hợp vợ chồng không thể thoả thuận chia tài sản chung là quyền sử dụng đất hoặc thoả thuận chia tài sản bị vô hiệu thì toà án tiến hành thụ lý và giải quyết chia tài sản chung theo đơn yêu cầu của vợ, chồng (khoản 1 Điều 38, khoản 1 Điều 59 Luật HNGĐ 2014). Thẩm quyền giải quyết việc chia tài sản chung của vợ, chồng của Toà án được ghi nhận tại khoản 9 Điều 27, khoản 2 Điều 28, khoản 2 Điều 29 Bộ luật TTDS 2015, theo đó, toà án có thẩm quyền giải quyết “yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi hành án và yêu cầu khác theo quy định của Luật Thi hành án dân sự”, “tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân”, “yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thoả thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn”. Đối với tài sản là quyền sử dụng đất, theo điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật TTDS 2015 quy định chỉ Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết yêu cầu chia tài sản chung của vợ, chồng, trường hợp vợ chồng có tài sản chung là quyền sử dụng đất ở nhiều nơi thì vợ hoặc chồng có yêu cầu chia tài sản được lựa chọn toà án nơi có một trong các bất động sản để giải quyết (điểm i khoản 1 Điều 40 BLTTDS 2015).

Khi nhận được đơn yêu cầu của vợ hoặc chồng về chia tài sản và nhận thấy đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo đầy đủ nội dung, hình thức đáp ứng theo quy định và đúng thẩm quyền giải quyết, toà án tiến hành thụ lý giải quyết yêu cầu sau khi người khởi kiện đã đóng tạm ứng án phí đầy đủ theo quy định.

Trong quá trình giải quyết vụ án và chuẩn bị xét xử về chia tài sản chung của vợ, chồng, Thẩm phán tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ thông qua các hoạt động lấy lời khai của các đương sự, và những người có liên quan; yêu cầu các bên cung cấp tài liệu chứng cứ … (Điều 94, 95 BLTTDS 2015). Bên cạnh đó, để bảo vệ quyền lợi của mình, vợ chồng hay những người có quyền và lợi ích liên quan đến  vụ án có quyền giao nộp các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Thẩm phán tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, tạo điều kiện cho các bên vợ, chồng có điều kiện tiếp tục thoả thuận giải quyết vụ án. Đặc biệt với các vụ án hôn nhân gia đình có liên quan đến tranh chấp về tài sản, việc tiến hành hoà giải là rất cần thiết để các bên hiểu và hướng tới thoả thuận được với nhau, tránh hoặc hạn chế tối đa xung đột ảnh hưởng đến tình cảm gia đình.

Trong trường hợp công tác hoà giải không đem lại hiệu quả, vợ chồng không thể thoả thuận được với nhau về các tranh chấp đã yêu cầu toà án giải quyết, Thẩm phán tiến hành ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Dựa trên các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và được các bên cung cấp, Thẩm phán sẽ đưa ra quyết định cuối cùng để giải quyết vụ án. Trong trường hợp các bên đương sự có kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có kháng nghị, vụ án tiếp tục được giải quyết ở cấp phúc thẩm.

Đối với trường hợp vụ án chia tài sản chung của vợ, chồng có liên quan đến ngừoi thứ ba mà ngừoi này có yêu cầu độc lập thì Toà án có thể xem xét việc xét xử trong cùng một vụ án hoặc chuyển sang vụ án khác để giải quyết nếu ngừoi này có yêu cầu (Điều 73 BLTTDS 2015).

Theo khoản 2 Điều 219 BLDS 2015 thì “Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Nếu áp dụng điều luật trên vào mối quan hệ tài sản giữa vợ và chồng thì không chỉ vợ, chồng được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà một bên thứ ba cũng có quyền này. Theo một số quan điểm, “pháp luật cần quy định rõ: Trong trường hợp người có quyền có đủ chứng cứ cho rằng, vợ chồng không có thoả thuận hoặc không yêu cầu Toà án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản, thì người có quyền có thể yêu cầu Toà án chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để lấy phần tài sản của người vợ hoặc người chồng có nghĩa vụ thực hiện thanh toán các khoản nợ”. Song song đó cũng tồn tại những ý kiến phản đối theo hướng không nên công nhận quyền khởi kiện của bên thứ ba vì người thứ ba khó thực hiện được nghĩa vụ chứng minh khi khởi kiện.

Như vậy, bên thứ ba có quyền yêu cầu Toà án phân chia bất động sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân hay không vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.

Khi quy định về việc người thứ ba có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, khoản 2 Điều 219 BLDS năm 2015 còn kèm theo điều khoản loại trừ “trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Điều 38 Luật HNGĐ 2014 chỉ đề cập đến những chủ thể có quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là vợ và chồng mà không trao quyền này cho bên thứ ba có thể xem là “trường hợp pháp luật có quy định khác”. Do đó, việc phủ nhận quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của bên thứ ba không mâu thuẫn với quy định chung trong pháp luật dân sự. Mặt khác, không cần thiết trao cho người thứ ba quyền khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân vì những lý do sau đây:

Thứ nhất, người thứ ba được khởi kiện yêu cầu bên vợ hoặc chồng có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài sản với mình. Trong quá trình thi hành án, nếu tài sản riêng không đủ thì hoàn toàn có thể cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Chủ nợ sẽ không bị xâm phạm quyền lợi vì một bên vợ hoặc chồng cố ý không chia tài sản chung để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ.

Thứ hai, dù người thứ ba khởi kiện yêu cầu Toà án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân và được chấp nhận thì tài sản sau khi chia cũng không trực tiếp thuộc sở hữu của người đó. Trước hết, tài sản sẽ thuộc sở hữu riêng của bên vợ hoặc chồng có nghĩa vụ và bên có quyền vẫn phải tiếp tục khởi kiện để buộc vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ tài sản với mình, dẫn đến việc kiện tụng phức tạp và lòng vòng. Hơn nữa, hành vi yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng không đem đến cho chủ nợ quyền ưu tiên được thanh toán hơn các chủ nợ khác. Nói cách khác, tài sản một bên nhận được sau khi chia tài sản chung sẽ có ý nghĩa bảo đảm cho tất cả nghĩa vụ của vợ hoặc chồng. Đặt trường hợp chủ nợ không kịp thực hiện các thủ tục cần thiết và tài sản được chia đã dùng để thanh toán cho các chủ nợ khác thì người đó xem như bỏ công sức giúp người khác mà bản thân không thu được lợi ích nào.

Bộ luật TTDS 2015 quy định: đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, trừ một số ngoại lệ; mà trường hợp này không thuộc ngoại lệ luật định. Do đó, nếu chủ nợ không thực hiện được nghĩa vụ chứng minh thì dù có quy định cho người thứ ba quyền khởi kiện, quy định cũng chỉ tồn tại trên lý thuyết mà không có tác dụng thực tiễn.

Nguyên tắc phân chia bất động sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Quy định pháp luật

Chia bất động sản chung trong thời kỳ hôn nhân là một giao dịch dân sự. Vì vậy, việc phân chia tuân theo nguyên tắc khi xác lập giao dịch dân sự là ưu tiên và tôn trọng thoả thuận giữa các bên. Các quy định hướng dẫn chia tài sản chung của vợ chồng trong Luật HNGĐ 2014 chỉ áp dụng trong trường hợp vợ chồng không thoả thuận được. Lúc này, khi vợ chồng có yêu cầu thì Toà án sẽ đứng ra vận dụng quy định pháp luật để chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cho vợ chồng.

Không phải lúc nào vợ chồng cũng thống nhất được tất cả nội dung trong việc phân chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại. Pháp luật giải quyết tình huống vợ chồng không thoả thuận được bằng cách trao cho Toà án quyền phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân khi có yêu cầu, đồng thời quy định nguyên tắc phân chia. Theo đó, Luật HNGĐ 2014 hướng dẫn Toà án áp dụng nguyên tắc chia tài sản như khi ly hôn để chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại. Quy định này đã bổ khuyết thiếu sót trong Luật HNGĐ 2000. Cụ thể, Luật HNGĐ 2000 cũng cho phép vợ chồng yêu cầu Toà án giải quyết việc phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân khi không thoả thuận được nhưng không ràng buộc Toà án phải phân chia như thế nào. Từ đó, Toà án có thể tự do lựa chọn cách thức chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, hoặc chia đôi, hoặc chia theo công sức đóng góp,… dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật không thống nhất, xâm phạm quyền lợi của các bên.

Điều này có nghĩa là việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân luôn đặt dưới sự kiểm soát của Tòa án. Dù hai bên thỏa thuận được tất cả nội dung phân chia nhưng vẫn phải được Tòa án công nhận thì việc phân chia mới có hiệu lực pháp luật. Từ đó cho thấy, pháp luật HNGĐ giai đoạn này can thiệp khá sâu vào quan hệ nội bộ giữa vợ và chồng, quyền tự quyết của chủ sở hữu không được bảo đảm hoàn toàn khi còn đặt ra vấn đề công nhận của chủ thể thứ ba. Qua các lần sửa đổi, bổ sung, pháp luật HNGĐ hiện hành đã tổng hợp ưu điểm trong những văn bản pháp luật trước đây.

Khoản 2 Điều 59 Luật HNGĐ 2014 đưa ra nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng trong đó có nêu nguyên tắc chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố khác như hoàn cảnh gia đình vợ, chồng công sức đóng góp, lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng… Dựa trên các yếu tố và các nguyên tắc này, Tòa án tiến hành chia tài sản chung của vợ chồng. Nhiều trường hợp toà án chia tỉ lệ phần quyền với tài sản của vợ và chồng có sự chênh lệch nhau dựa trên những đánh giá nhận định đối với từng vụ việc. Đối với quyền sử dụng đất nói riêng hay bất động sản nói chung đều là các tài sản có giá trị rất lớn, vì vậy kể cả khi Toà án chia tỉ lệ có chênh lệch thường khiến cho các bên tranh chấp không đồng thuận. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một quy định cụ thể và cũng rất khó xác định chính xác các yếu tố như công sức đóng góp của vợ chồng vào khối tài sản chung của vợ chồng, khó nhận diện và phân định rõ ràng vợ hay chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, vi phạm quyền, nghĩa vụ về tài sản và không thể cân đối lỗi giữa vợ và chồng trong cuộc sống khi xét xử, giải quyết vụ án ly hôn vì trên thực tế nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn trong gia đình dẫn đến ly hôn khá đa dạng và hầu hết xuất phát từ cả hai phía người vợ chồng. Bởi vậy mà toà án rất khó áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp triệt để và làm hài lòng các bên đương sự.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí là lệ phí toà án. Trên thực tế chưa có cách hiểu chính xác về xác định mức tạm ứng án phí đã nêu, có thể hiểu quy định theo 02 quan điểm: thứ nhất, tạm ứng án phí không tính trên giá trị mà đương sự yêu cầu hưởng mà tính trên tổng giá trị tài sản có tranh chấp. Thứ hai, tạm ứng án phí chỉ tính trên giá trị mà họ yêu cầu được hưởng tức là xác định “giá trị tài sản có tranh chấp do đương sự yêu cầu giải quyết” tương ứng với tỷ lệ tài sản mà người khởi kiện (người yêu cầu) xin được hưởng. Trong trường hợp các vụ việc chia tài sản có giá trị lớn như quyền sử dụng đất thì việc xác định đúng tạm ứng án phí có thể dẫn tới những ảnh hưởng lớn tới quyền lợi đối với tài sản cũng như nghĩa vụ thực hiện đóng tạm ứng án phí của các bên, trong khi khoản tạm ứng án phí lớn có thể vượt khả năng chi trả của họ. Nếu xác định tạm ứng án phí theo quan điểm thứ nhất thì ưu điểm là nguồn thu ngân sách nhà nước sẽ được nhiều hơn, thời hạn để chuẩn bị xét xử một vụ án hôn nhân hay dân sự theo điểm a khoản 1 Điều 203 BLTTDS 2015 là 04 tháng (hoặc 06 tháng nếu có quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử còn kéo dài hơn, như vậy nếu vụ án có tình tiết phức tạp, thời gian giải quyết kéo dài thì khoản thu này sẽ sinh lãi. Tuy nhiên nếu xác định giá trị tài sản tranh chấp để tính tạm ứng án phí theo quan điểm thứ nhất thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người khởi kiện, người yêu cầu. Bởi lẽ để được chia tài sản, họ phải nộp khoản tiền khá lớn, nếu họ thuộc vào những người ít tài sản đôi khi khoản tạm ứng án phí vượt quá khả năng của họ, gây khó khăn cho việc họ yêu cầu toà án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

Việc định giá tài sản đối với quyền sử dụng đất được toà án xác định theo giá thị trường. Tuy nhiên việc xác định giá thị trường đối với tài sản là quyền sử dụng đất trên thực tế gặp những khó khăn nhất định. Nhiều trường hợp giá trị quyền sử dụng đất bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như vị trí, diện tích, hình dạng, công năng sử dụng…Có thể các thửa đất nằm cạnh nhau nhưng do các yếu tố khác tác động mà giá trị thực tế có sự chênh lệch lớn.

Đối với tài sản là quyền sử dụng đất, khi tiến hành phân chia tài sản chung của vợ chồng, đa số có mong muốn có sự phân định rõ ràng phần tài sản của mỗi người theo hiện vật. Để phân chia, toà án cần phải xét đến nhiều yếu tố ví dụ như đáp ứng được nhu cầu sử dụng của vợ, chồng. Bên cạnh đó, cần xét đến các quy định liên quan đến diện tích tối thiểu được các cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trên thực tế diện tích quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ, chồng không phải lúc nào cũng đủ để thực hiện chia bằng hiện vật, trong những trường hợp như vậy Toà án áp dụng nguyên tắc bên nào nhận tài sản bằng hiện vật thì thanh toán cho bên kia phần chênh lệch so với giá trị mà mình được hưởng (khoản 3 Điều 59 Luật HNGĐ 2014). Tuy nhiên nguyên tắc như vậy cũng rất khó áp dụng khi các bên đương sự đều mong muốn nhận tài sản bằng hiện vật mà không thể thoả thuận được với nhau bên nào được hưởng theo hiện vật. Việc toà án ra quyết định cho một bên hưởng giá trị tài sản theo hiện vật mang tính cưỡng chế thực hiện có thể mang lại một số bất cập trong trường hợp bên nhận hiện vật không có đủ điều kiện để thanh toán cho bên được hưởng giá trị tài sản bằng tiền, ảnh hưởng tới quá trình thi hành bản án trên thực tế.

* Quy định về người đứng tên quyền sở hữu trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản chung hiện nay không bắt buộc cả vợ, chồng đứng tên mà trao quyền cho vợ, chồng được phép đứng tên một người trong trường hợp có thoả thuận (Điều 98 Luật Đất đai 2013 và Điều 34 Luật HNGĐ 2014). Việc quy định một bên được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước trong xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung hay tài sản riêng. Trên thực tế, rất nhiều trường hợp mặc dù quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ, chồng nhưng chỉ đứng tên một người trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vợ chồng trong lúc đó thể hiện sự tự nguyện thông qua lời nói mà không có sự thoả thuận cụ thể bằng văn bản, dẫn tới việc đăng ký tại các cơ quan hành chính hay việc xác lập các giao dịch như chuyển nhượng tặng cho quyền sử dụng đất không có thông tin về tài sản là sở hữu chung hay sở hữu riêng của vợ, chồng. Những trường hợp như vậy khi xảy ra tranh chấp rất khó xác định chứng cứ chứng minh tài sản chung của vợ chồng, bởi khi tranh chấp tại toà án, Thẩm phán tiến hành xác minh cũng dựa trên những văn bản có giá trị pháp lý do các bên đưa ra.

Nguồn: Lương Trọng Kha.

Nếu quý khách có yêu cầu cần hỗ trợ vui lòng liên hệ:

Văn phòng Luật sư Nguyên

  • Trụ sở: Tổ 1, Nguyễn Huệ, Kp 3, thị trấn Trảng Bom, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.
  • Chi nhánh: Số 41 Cách Mạng Tháng Tám, phường Xuân An, Tp. Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.
  • Điện thoại: 0937.67.69.69 – 0936392979
  • Email: luatsutrangiap@gmail.com

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *