Bản án năm 2025 về việc yêu cầu xác định tài sản để thi hành án

tranh chấp đất đai

Yêu cầu xác định tài sản để thi hành án

Bà Trương Thị N có thiếu tiền của các ông bà, các ông bà yêu cầu Thi hành án kê biên phát mãi tài sản của bà N để trả khoản nợ thiếu. Theo Thông báo số 25/TB-CCTHADS ngày 20/02/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời. Các ông bà khởi kiện yêu cầu phân chia tài sản của bà Trương Thị N và ông Lâm Tấn Đ1 đối với các tài sản là phần đất có diện tích 350m2 được Ủy ban nhân dân huyện T cấp cho ông Lâm Tấn Đ1 số phát hành CE 836988 cấp ngày 12/5/2017 tại ấp R, xã L, huyện T, Cà Mau và phần đất có diện tích ngang 05m x dài 30m và một căn nhà tiền chế trên đất, đất tọa lạc tại ấp C, xã L, huyện T, Cà Mau. Tại phiên Tòa nguyên đơn chỉ yêu cầu phân chia tài sản chung giữa ông Đ1 với bà N là phần đất theo đo đạc thực tế tại thửa số 2 diện tích 170,8m2 và thửa số 3 diện tích 173,1m2 tại ấp R, xã L, huyện T, Cà Mau và phần đất có diện tích ngang 05m x dài 30m (theo đo đạc thực tế diện tích 130,7m2 và một căn nhà tiền chế trên đất, đất tọa lạc tại ấp C, xã L, huyện T, Cà Mau Yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà V với ông Đ1, bà N và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà N, ông Đ1 với ông Trần Văn M1, bà Nguyễn Thị C vô hiệu.

Tài sản

Về hình thức, về nội dung và thời hạn kháng cáo được bà V, bà C ông M1 thực hiện đúng quy định tại các Điều 272, 273 Bộ luật TTDS, đủ điều kiện để
HĐXX xem xét kháng cáo theo quy định. Về thẩm quyền cấp sơ thẩm thụ lý, giải quyết đúng thẩm quyền theo quy định tại điều 26, 35 Bộ luật tố tụng dân sự. Do bà V, và vợ chồng bà C ông M1 kháng cáo có nội dung yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa mình với vợ chồng ông Đ1 bà N nên HĐXX xem xét kháng cáo của các đương sự cùng lúc. Xét kháng cáo của bà V, và vợ chồng bà C ông M1: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông M1 bà C với vợ chồng ông Đ1 bà N thể hiện tại Tờ bán đất ngày 21/02/2019, và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà V với vợ chồng ông Đ1 bà N thể hiện tại Văn bản thỏa thuận chuyển quyền sử dụng đất ngày 22/4/2019, các văn bản chuyển nhượng đất này tuy không phù hợp quy định của pháp luật về hình thức hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và không được công chứng chứng thực. Nhưng tất cả đều được xác lập trên tinh thần tự nguyện và đã được các bên thực hiện xong quyền và nghĩa vụ của mình, phía ông Đ1 bà N đã nhận đủ tiền chuyển nhượng và giao đất cho bà V, bà C ông M1 đồng thời họ đã nhận đất cất nhà ở ổn định cho đến nay. Việc chuyển nhượng đều được thực hiện năm 2019 trước khi có bản án mà bà N phải thanh toán nợ cho bà H, bà Đ, ông Y (Bản án xử năm 2023). Mặt khác tuy phần đất chuyển nhượng là đất nông nghiệp, nhưng vị trí phần đất các bên chuyển nhượng thuộc khu quy hoạch dân cư nông thôn, UBND huyện T có văn bản cho phép chuyển mục đích sử dụng BL số 61. Nên cấp sơ thẩm căn cứ vào hạn mức tối thiểu được chuyển quyền tách thửa loại đất nông nghiệp 500m2 theo Quyết định số 40/2021/QĐ-UBND ngày 30/11/2021 của UBND tỉnh C là chưa hợp lý, mà nên áp dụng hạn mức tối thiểu đối với đất ở nông thôn do phần đất chuyển nhượng thuộc quy hoạch khu đất ở nông thôn được phép chuyển mục đích sử dụng. Hơn nữa hai phần đất chuyển nhượng này không phải là tài sản duy nhất của ông Đ1 bà N để thi hành án. Do đó cần sửa án sơ thẩm chấp nhận kháng cáo của bà V, bà C ông M1 công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất giữa các bên là phù hợp. Quan điểm của đại diện VKS tham gia phiên tòa phù hợp với nhận định của HĐXX.

Tải đầy đủ bản án: Bản án về yêu cầu xác định tài sản để thi hành án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta1721023t1cvn/chi-tiet-ban-an

CÔNG TY LUẬT VIỆT NGUYÊN

  • Trụ sởSố 41 Cách Mạng Tháng Tám, phường Xuân An, Tp. Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.
  • Điện thoại: 0936.39.29.79
  • Email: luatsutrangiap@gmail.com