Hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý

Hợp đồng được xác lập giả tạo

Hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý

Theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 một hợp đồng bị coi là vô hiệu tuyệt đối khi:

  • Vi phạm vào các điều cấm của luật, trái với đạo đức của xã hội;
  • Hợp đồng được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một hợp đồng khác; Hợp đồng bị coi là vô hiệu tương đối trong các trường hợp;
  • Hợp đồng được xác lập bởi người chưa thành niên ;
  • Hợp đồng được xác lập bởi người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; được xác lập bởi người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi;
  • Hợp đồng được xác lập do bị nhầm lẫn;
  • Hợp đồng do bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép; người xác lập hợp đồng không nhận thức được hành vi của mình;
  • Hợp đồng được xác lập không tuân thủ quy định về hình thức luật định.

Ví dụ: Ông A là chủ sở sử dụng đất đối với thửa đất 111, tờ bản đồ số 12, tọa lạc tại tỉnh C. Ngày …/…/…, ông A đã đến gặp bà M để vay số tiền 1.000.000.000 đồng lãi suất 3%/tháng thời gian vay 06 tháng. Bà M yêu cầu biện pháp bảo đảm là ông A phải ký hợp đồng mua bán công chứng khu đất nêu trên cho bà M giá trị chuyển nhượng 1.180.000.000đ (bằng số tiền gốc vay và tiền lãi 06 tháng) nếu hết 06 tháng ông A thanh toán đủ số tiền 1.180.000.000đ bà M sẽ ký chuyển nhượng, sang tên lại thửa đất cho ông A, thuế, lệ phí và các phí sang tên, chuyển nhượng do ông M chịu trách nhiệm thanh toán . Nội dung thỏa thuận do hai bên trao đổi trực tiếp, tin nhắn sau đó ký “Giấy vay tiền” nhưng bản gốc do bà M giữ, ông A chỉ chụp lại được bản gốc. Sau đó, hai bên ra Phòng công chứng để ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất. Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng công chứng xong bà M đi đăng bộ sang tên. Đến thời hạn 06 khi ông A đề nghị trả lại tiền gốc và tiền lãi đồng thời yêu cầu bà M ký chuyển nhượng sang tên thửa đất lại cho ông nhưng bà M không đồng ý và cho rằng thửa đất do bà M nhận chuyển nhượng chứ không có quan hệ vay mượn tiền. Tranh chấp xảy ra ông A yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở có công chứng là vô hiệu vì đây là một giao dịch giả tạo nhằm che dấu một giao dịch khác là thế chấp tài sản để vay tiền, đồng ý trả cho bà M số tiền 1.180.000.000 đồng cho ông M

Xem xét vụ việc có thể nhận thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất  giữa ông A và bà M là giả tạo, nhằm che giấu quan hệ vay tiền giữa ông A và bà M. Do hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu do giả tạo hợp đồng này không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ các bên.

Hợp đồng được xác lập giả tạo
Hợp đồng được xác lập giả tạo

Điều 131 BLDS năm 2015 và Nghị quyết số 01/2003/NQ- HĐTP. quy định chung về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu:

“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

  1. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
  2. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
  3. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
  4. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”

Hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm hợp đồng được xác lập. Khi hợp đồng được giao kết nhưng vi phạm quy định của pháp luật sẽ được xác định là vô hiệu, không làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các bên tính từ thời điểm giao kết, nếu các bên chưa thực hiện hợp đồng sẽ không thực hiện hợp đồng nữa, nếu các bên đang thực hiện hợp đồng thì phải dừng việc thực hiện hợp đồng.

Khi hợp đồng vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. Chủ thể có hành vi thay đổi hiện trạng buộc phải tiến hành khắc phục lại như cũ, với các hợp đồng vô hiệu có đối tượng là tài sản, nếu không thể hoàn trả được tài sản cho bên có quyền do tài sản bị mất, bị huỷ hoại, thì bên vi phạm nghĩa vụ hoàn trả sẽ phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền.

Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. “Người thứ ba ngay tình khi tham gia giao dịch dân sự vô hiệu là người được chuyển giao tài sản thông qua giao dịch dân sự mà họ không biết, không buộc phải biết là tài sản đó do người chuyển giao cho họ thu được từ một giao dịch vô hiệu”. Những người thứ ba ngay tình khi tham gia vào các giao dịch dân sự được bảo vệ theo quy định tại Điều 133, Điều 167, Điều 168 BLDS năm 2015.

Khoản 4 Điều 131 BLDS năm 2015 quy định “Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường” Khi giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu, Toà án  xác định lỗi của các chủ thể, làm căn cứ ấn định mức bồi thường thiệt hại. Nếu các bên cùng có lỗi tương đương nhau, thì mỗi bên chịu trách nhiệm bồi thường ½ thiệt hại; nếu mức độ lỗi của các bên không tương đương nhau thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định theo mức độ lỗi của các bên.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *