Một số quan hệ hôn nhân hiện nay 2024

Các trạng thái hôn nhân, ý nghĩa pháp lý:

1. Hôn nhân hợp pháp:

Hôn nhân hợp pháp là quan hệ hôn nhân được xác lập và tồn tại phù hợp với các quy định pháp luật, có đăng ký kết hôn và được Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận kết hôn.

Nam nữ có quan hệ hôn nhân hợp pháp được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ, luôn có điều kiện thuận lợi về mặt pháp lý khi tham gia các giao dịch dân sự cũng như được bảo đảm quyền lợi phát sinh từ việc xác lập quan hệ hôn nhân này.

Hôn nhân hợp pháp còn bao gồm những trường hợp tuy có vi phạm một số quy định khi kết hôn nhưng sau đó đã đủ điều kiện được công nhận hôn nhân theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án HN-GĐ hay các tranh chấp dân sự khác có liên quan đến quan hệ hôn nhân, việc xác định tính chất của quan hệ hôn có ý nghĩa rất quan trọng. Từ việc xác định được tính chất của quan hệ hôn nhân mới xác định đúng được các quyền, nghĩa vụ cụ thể.

Ví dụ: Quan hệ giữa Ông A, và bà B được xác định là quan hệ hôn nhân hợp pháp thì khi ông A chết trước, bà B có quyền hưởng thừa kế của ông A, và việc chia tài sản chung của ông A và bà B tuân theo pháp luật hôn nhân và gia đình; nếu giữa hai người không được công nhận là hôn nhân hợp pháp thì bà B không được hưởng thừa kế của ông A và việc chia tài sản chung tuân theo quy định của pháp luật dân sự.

2. Hôn nhân thực tế:

Hôn nhân thực tế một quan hệ được xác lập giữa hai người, một nam và một nữ, có đủ các điều kiện để kết hôn, chung sống với nhau như vợ chồng nhưng lại không đăng ký kết hôn.

Có một thời kỳ dài hôn nhân thực tế được thừa nhận trong thực tiễn giao dịch, như là một chế định bổ khuyết có tác dụng khắc phục những khó khăn trong việc thiết lập hệ thống hộ tịch trên phạm vi cả nước (khó khăn do chiến tranh), cũng như việc hạn chế nhận thức của một bộ phận dân cư về hôn nhân và gia đình.

Từ trước ngày 03/01/1987, Nhà nước ta vẫn thừa nhận giá trị của hôn nhân thực tế, nếu các bên cư xử với nhau như vợ chồng, sống chung và gánh vác công việc gia đình, được gia đình hai bên và xã hội thừa nhận. Từ sau khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực (03/01/1987), thì chỉ có các trường hợp hai người chung sống với nhau như vợ chồng, có tài sản chung hoặc có con chung mới được coi là hôn nhân thực tế và mới được Nhà nước thừa nhận là hôn nhân hợp pháp.

Từ ngày 01/01/2001 (ngày Luật HN-GĐ năm 2000 có hiệu lực) thì các tiêu chí xác định “khái niệm chung sống với nhau như vợ chồng” để được thừa nhận là hôn nhân thực tế được mở rộng hơn nhiều, không đòi hỏi họ phải “có con chung, có tài sản chung”, “sống chung công khai được họ hàng, xã hội thừa nhận” như hướng dẫn trước đây.

Cần lưu ý là từ thời điểm thi hành Luật HN-GĐ năm 2000 thì văn bản pháp quy và thực tiễn xét xử không sử dụng thuật ngữ “hôn nhân thực tế” nữa mà sử dụng thuật ngữ “chung sống như vợ chồng”. Từ việc chung sống như vợ chồng sẽ được “công nhận quan hệ hôn nhân” hay “không công nhận quan hệ vợ chồng” (sẽ trình bày cụ thể ở phần sau).

Tuy nhiên, thời điểm xác định “chung sống như vợ chồng” cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Nghị quyết số 35/2000/QH10 quy định hậu quả pháp lý rất khác nhau đối với các mối quan hệ có thời điểm chung sống như vợ chồng khác nhau. Có quan hệ ở mức độ nào được coi là “chung sống như vợ chồng” cũng cần phải có tiêu chí thống nhất. Theo quy định tại Điểm d Mục 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 thì chung sống như vợ phải thuộc một trong những trường hợp sau đây:

– Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;

– Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp nhận;

– Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;

– Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.

Thời điểm nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ cưới hoặc ngày họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp nhận hoặc ngày họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.

3. Kết hôn trái pháp luật:

Kết hôn trái pháp luật là tình trạng hôn nhân có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm một hoặc một số điều kiện kết hôn hợp pháp; hoặc thủ tục kết hôn không đúng quy định của pháp luật.

Trường hợp kết hôn trái pháp luật thì mới là đối tượng của việc yêu cầu hủy hôn nhân trái pháp luật. Cần phân biệt trường hợp kết hôn trái pháp luật với trường hợp chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.

Chung sống với nhau như vợ chồng cũng là một tình trạng hôn nhân bất hợp pháp (nếu một bên đã có vợ hoặc có chồng), thậm chí có thể bị xử lý bằng biện pháp hình sự nhưng không thuộc đối tượng của yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật. Việc giải quyết hậu quả của việc chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn theo quy định tại các điều 14, 15, 16 Luật HN-GĐ.

Luật HN-GĐ có một quy định mới là có thể công nhận hôn nhân khi    giải quyết yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật.

Khoản 2 Điều 11 Luật HN-GĐ quy định: “Trong trường hợp Tòa án giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện theo quy định của Điều 8 Luật này và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này.”

4. Ly thân:

Ly thân là trạng thái hôn nhân mà nam nữ không còn chung sống như vợ chồng nhưng họ chưa chính thức chấm dứt hôn nhân, vì nhiều lý do khác nhau họ vẫn muốn duy trì mối quan hệ, nghĩa vụ với nhau.

Ở Việt Nam, ly thân đã từng được quy định trong Bộ Dân luật giản yếu Nam kỳ 1883, trong án lệ ở Bắc Kỳ trước năm 1945 và trong pháp luật về gia đình của chế độ cũ ở miền Nam (Luật Gia đình năm 1959, Bộ luật Dân sự năm 1972).

Trên thế giới, ly thân cũng đã được nhiều nước thừa nhận như: Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức, Thụy Điển, Thái Lan, Philippin, Singapore, một số bang của Hoa Kỳ…

Tuy nhiên, Luật HN-GĐ hiện hành không ghi nhận ly thân là một chế định pháp lý của pháp luật hôn nhân và gia đình. Luật hiện hành không có quy định nào buộc vợ chồng nhất thiết phải sống chung nên đương nhiên họ có quyền sống riêng mà không cần có quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Với quy định hiện hành thì thời kỳ ly thân vẫn là thời kỳ hôn nhân hợp pháp, các quan hệ về tài sản cũng như các quyền và nghĩa vụ vẫn có giá trị pháp lý như trong thời kỳ hôn nhân. Ví dụ: tài sản do một bên làm ra trong thời kỳ ly thân cũng vẫn là tài sản chung.

Tài liệu tham khảo: Luật HN-GĐ 2000

Luật HN-GĐ 2014

Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001

Nếu quý khách có yêu cầu cần hỗ trợ vui lòng liên hệ:

Văn phòng Luật sư Nguyên

  • Trụ sở: Tổ 1, Nguyễn Huệ, Kp 3, thị trấn Trảng Bom, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.
  • Chi nhánh: Số 41 Cách Mạng Tháng Tám, phường Xuân An, Tp. Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.
  • Điện thoại: 0937.67.69.69 – 0936392979
  • Email: luatsutrangiap@gmail.com

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *