Bản án về yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho
Hồ sơ thể hiện nguồn gốc của tài sản( quyền sử dụng đất ) đối với các thửa số 133.321.322 nằm trong mảnh đất có diện tích hơn 2000m2 nêu trên là của cụ Nguyễn Văn Dịnh và cụ Đinh Thị Bài, khoảng năm 1985, 2 cụ cắt cho con trai thứ 3 nguyễn Văn T ( vợ là Nguyễn thị Lệ ) 800m2. năm 1987 cụ Dịnh chết, năm 1989 cụ Bài chết không để lại di chúc. Sau khi các cụ chết, ông A bà D tiếp tục sinh sống trến 1.248 m2 ở cùng con trai và nuôi chị gái cả là bà Nguyễn Thị Giới (có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi), và sử dụng diện tích đất trên ổn định, không có tranh chấp, năm 1993 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng trong năm 1993 ông bà A D phá bỏ nhà sàn và xây nhà mái bằng khoảng 70m2. Năm 2000 nhà nước đo đạc chính quy và được cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thuế đất hàng năm ông bà A D đóng đầy đủ. Năm 2018 ông bà A D phá bỏ nhà 1 tầng, nay đã xây dựng nhà kiên cố là nhà mái thái nguồn tiền là của ông bà A D và chị N không của ai khác. Hiện nay toàn bộ nhà cửa hoa màu là của gia đình ông bà A D và chị N. Trong quá trình xây dựng nhà mái bằng và nhà mái thái anh em trong gia đình không ai có ý kiến phản đối gì và cũng không có tranh chấp. Do đó việc anh T và những người liên quan cho rằng vợ chồng A D tự ý kê khai giấy tờ đất ông T không biết là không có cơ sở, N vậy có căn cứ khẳng định lời khai của vợ chồng ông bà A D về việc các cụ cho diện tích đất 1.248 m2 trên là có cơ sở.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm nhận định rằng ông bà A D tự ý đi làm giấy tờ đất ông T không biết và việc ông A D khai đã được các cụ cho đất Nng không có chứng cứ chứng minh, để xác định diện tích đất 1.248m2 tại xóm M, xã TM, huyện Kỳ S (nay là Tổ dân phố M, phường TM, thành phố HB) là tài sản của hộ gia đình A D là không đúng mà tài sản trên vẫn thuộc di sản các cụ để lại nên cấp sơ thẩm đã hủy hợp đồng tặng cho giữa ông bà A D và chị N cháu G. Việc cấp sơ thẩm nhận định N trên và hủy hợp đồng tặng cho là không đúng.
Bởi lẽ ông Nguyễn Văn T không phải là chủ thể của Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản trên đất nêu trên và ông T cũng chưa chứng minh được quyền lợi của mình bị ảnh hưởng trong vụ án này nên ông Nguyễn Văn T không có quyền khởi kiện “yêu cầu hủy Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản trên đất giữa bên cho là ông Nguyễn Văn A, bà Định Thị D và bên nhận tặng cho là chị Nguyễn Thị Hải N, cháu Nguyễn Hoàng G” theo quy định tại Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự.
Ông Nguyễn Văn A và bà Đinh Thị D được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 1.248m2 trên theo đúng trình tự quy định của pháp luật nên ông bà có quyền sử dụng và quyền định đoạt diện tích đất trên. Việc ông bà tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản trên đất của ông Nguyễn Văn A bà Đinh Thị D là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc và đã thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, có công chứng chứng thực của cơ quan có thẩm quyền. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn A và bà Đinh Thị D chưa bị cơ quan nhà nước thu hồi hay hủy bỏ, trong thời gian này không phát sinh tranh chấp.
Hơn nữa về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế cũng đã hết. Bởi lẽ cụ Nguyễn Văn Dịnh chết năm 1987 và cụ Đinh Thị Bài chết năm 1989 thì theo văn bản giải đáp ngày 05/01/2018 và hướng dẫn số 02 ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10/9/1990. Ngày 9/11/2020 ông Nguyễn Văn T mới khởi kiện (đã trên 30 năm) do đó đã hết thời hiệu khởi kiện.
Ngoài ra cấp sơ thẩm còn vi phạm tố tụng: Trong vụ án này còn có bà Nguyễn Thị Giới là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án là người có khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, sau khi có kết luận giám định sức khỏe tâm thần số 37/2021/SKTT ngày 9/11/2021 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực miền núi phía bắc xác định bà Giới là người có khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi , lẽ ra cấp sơ thẩm phải tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự để giải quyết việc dân sự “yêu cầu tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi” theo điều 23 Bộ luật dân sự. Việc cấp sơ thẩm xác định luôn bà Nguyễn Thị Giới là người có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi trong cùng vụ án dân sự là chưa đúng quy định tại chương XXIV của Bộ luật tố tụng dân sự về “thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế khả năng hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.
N vậy việc cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T “Tuyên bố Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản trên đất giữa bà Đinh Thị D, ông Nguyễn Văn A và chị Nguyễn Thị Hải N, cháu Nguyễn Hoàng G được công chứng ngày 28/5/2015 theo Hợp đồng công chứng số 729, 730, 731 tại Phòng công chứng Q là vô hiệu” và đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T về việc yêu cầu chia thừa kế và công nhận quyền sở hữu tài sản là không đúng quy định của pháp luật.
Từ nhận định trên có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của Bà Nguyễn Thị Hải N, bà Đinh Thị D, ông Nguyễn Văn A, Hủy bản án sơ thẩm số 22/2021/DSST ngày 29/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố HB và đình chỉ giải quyết vụ án.
nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn/
Được Luật Sư Đồng Nai cung cấp cho quý khách hàng.
Quý khách hàng có thể tải bản án tại:BA_Thanh_Nhu__Copy
Nếu quý khách có yêu cầu cần hỗ trợ vui lòng liên hệ:
Văn phòng Luật sư Nguyên
- Trụ sở: Tổ 1, Nguyễn Huệ, Kp 3, thị trấn Trảng Bom, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.
- Chi nhánh: Số 41 Cách Mạng Tháng Tám, phường Xuân An, Tp. Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.
- Điện thoại: 0937.67.69.69 – 0936392979
- Email: luatsutrangiap@gmail.com
Goood article. I am goong tjrough a ffew off thesse isssues as well..