QUY ĐỊNH VỀ GIAO DỊCH VỚI NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH TẠI ĐIỀU 133 TRONG BLDS

Bản án về giết người và cướp tài sản.

Tiền gửi trong tài khoản ngân hàng đứng tên vợ hoặc chồng có phải là sản chung vợ chồng? Khi thực hiện giao dịch rút có cần phải được sự đồng ý của người kia hay không?

Theo quy định của pháp luật: Tài sản chung vợ chồng là tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập từ lao động, sản xuất, kinh doanh, do vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho chung hoặc tài sản vợ chồng thoả thuận là tài sản chung. (Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình)

Theo quy định của pháp luật về tài chính, ngân hàng thì chủ tài khoản có quyền thực hiện các hành vi pháp lý đến tài khoản của mình điều này đã đáp ứng được yêu cầu thực tiễn khi chỉ cần một bên vợ chồng có tên trên tài khoản thực hiện giao dịch. Đồng thời, đối với tài sản là động sản mà pháp luật không quy định về đăng ký quyền sở hữu thì người đang trực tiếp chiếm hữu động sản đó có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó.

QUY ĐỊNH TRONG GIAO DỊCH VỚI NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH

Quy định về giao dịch với người thứ 3 ngay tình tại Điều 133 BLDS 2015.

  1. Giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực trong trường hợp đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình, trừ trường hợp tại Điều 167 BLDS năm 2015;
  2. Giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực trong trường hợp tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một GDDS khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch. Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì GDDS với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa;
  3. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu GDDS với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2, nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.

Theo đó, trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó (Khoản 1 Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2014). Quy định này không chỉ bảo vệ quyền lợi chính đáng của người thứ ba mà còn giúp vợ, chồng có thể thực hiện giao dịch với bên thứ ba một cách thuận tiện mà không cần phải chứng minh về quyền đối với tài sản được dùng để giao dịch bởi theo nguyên tắc của pháp luật về tài chính, ngân hàng, chỉ các chủ tài khoản mới có quyền thực hiện các hành vi liên quan đến tài khoản của họ. Khoản 2 Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng đang chiếm hữu động sản mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó trong trường hợp BLDS có quy định về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình. Đối với tài sản là động sản mà pháp luật không quy định về đăng ký quyền sở hữu thì người đang trực tiếp chiếm hữu động sản đó có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó. Tương tự như khoản 1 Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2014, quy định này giúp vợ chồng có thể thực hiện các giao dịch một cách dễ dàng mà không cần phải chứng minh về quyền sở hữu đối với tài sản được giao dịch cũng như không nhất thiết phải có sự đồng ý của bên còn lại.

Tuy nhiên, trong các trường hợp trên, để bên thứ ba khi giao dịch với vợ, chồng được xem là ngay tình thì bên thứ ba không thuộc trường hợp quy định tại Điều 8 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP. Theo đó người thứ ba không ngay tình khi xác lập, thực hiện giao dịch với vợ, chồng liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán, động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu thì bị coi là không ngay tình trong những trường hợp sau đây: (i) Đã được vợ, chồng cung cấp thông tin theo quy định tại Điều 16 của Nghị định này mà vẫn xác lập, thực hiện giao dịch trái với những thông tin đó; (ii) Vợ chồng đã công khai thỏa thuận theo quy định của pháp luật có liên quan về việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản và người thứ ba biết hoặc phải biết nhưng vẫn xác lập, thực hiện giao dịch trái với thỏa thuận của vợ chồng;

Quy định trên cho thấy, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi của người thứ ba mà còn ràng buộc trách nhiệm của người thứ ba khi tham gia giao dịch với một bên vợ, chồng bằng việc người thứ ba trong trường hợp đã được vợ chồng cung cấp thông tin về tình trạng tài sản của vợ chồng nhưng vẫn cố tình xác lập các giao dịch này thì phải chịu trách nhiệm với hành vi của mình, hoặc trường hợp pháp luật quy định những giao dịch liên quan đến tài sản mà bắt buộc người thứ ba biết hoặc phải biết về thông tin liên quan đến tài sản đó nhưng người thứ ba vẫn cố tình xác lập thì người thứ ba cũng không được coi là ngay tình và phải tự chịu trách nhiệm với hành vi của mình. Tuy nhiên, việc công khai thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng dưới hình thức như thế nào thì hiện nay pháp luật hôn nhân và gia đình lại chưa quy định rõ ràng về vấn đề này.

Khi các bên lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì khi xác lập, thực hiện giao dịch vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp cho người thứ ba biết về những thông tin liên quan; nếu vợ, chồng vi phạm nghĩa vụ này thì người thứ ba được coi là ngay tình và được bảo vệ quyền lợi theo quy định của pháp luật dân sự. Khi một bên vợ, chồng ký kết giao dịch với người thứ ba, người này có thể không biết về tình trạng hôn nhân của người xác lập giao dịch với mình, cùng với đó, trong nhiều trường hợp pháp luật không đòi hỏi các bên tham gia giao dịch phải tìm hiểu về tình trạng hôn nhân của nhau, nhất là đối với những trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về tài sản trước hôn nhân. Do đó, để đảm bảo an toàn cho bên thứ ba khi tham gia giao dịch với một bên là vợ chồng thì, vợ chồng phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin liên quan, trường hợp vi phạm sẽ chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật dân sự. Trong trường hợp vợ chồng vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin cho người thứ ba theo quy định tại Điều 16 Nghị định 126/2014/NĐ-CP thì người thứ ba sẽ được coi là ngay tình và được bảo vệ bởi Điều 133 BLDS năm 2015. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường là nguyên tắc đặt ra nhằm bảo đảm quyền tự do về thỏa thuận mà pháp luật trao cho vợ chồng không ảnh hưởng đến quyền lợi của chính vợ chồng, gia đình và người thứ ba có giao dịch liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng.


Văn phòng luật sư Nguyên hỗ trợ các vấn đề lao động: Hợp đồng, bồi thường,….. tại khu vực Trảng Bom, Long Khánh, Long Thành, Biên Hòa, Thống Nhất, Định Quán, Cẩm Mỹ, Xuân Lộc – Đồng Nai, Bình Dương, Hồ Chí Minh
Luật sư tại Biên Hòa, Luật sư Long Khánh, Luật sư Trảng Bom, Luật sư Thống Nhất, Luật sư Long Thành, Luật sư Bình Dương, Luật sư Hồ Chí Minh
Nếu quý khách hàng có thắc mắc xin vui lòng liên hệ
Trụ sở: Tổ 1, Nguyễn Huệ, Kp 3, thị trấn Trảng Bom, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.
Chi nhánh: Số 41 Cách Mạng Tháng Tám, phường Xuân An, Tp. Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.
Điện thoại: 0937.67.69.69 – 0936392979 (Luật sư – Trần Văn Giáp)
Email: luatsutrangiap@gmail.com

 

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *