NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VỀ TIỀN LƯƠNG
Sau khi nghiên cứu các tải liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và lời phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Xét đơn kháng cáo của Công ty TNHH F (Công ty F) làm trong hạn luật định, là hợp lệ nên được xem xét theo thủ tục phúc thầm.
[2] Xét các nội dung kháng cáo liên quan đến thủ tục tố tụng:
Bà H tranh chấp đòi tiền lương, trước khi khởi kiện có đơn gửi Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội quận B, thành phố Hà Nội đề nghị hòa giải đúng quy định. Sau khi Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội quận B không tiến hành hòa giải tranh chấp lao động giữa bà H và Công ty F, bà H nộp đơn khởi kiện vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện theo quy định tại khoản 7 Điều 188 Bộ luật Lao động năm 2019.
Về thẩm quyền giải quyết: Bà H khởi kiện yêu cầu Công ty F thanh toán tiền lương theo Hợp đồng lao động số FWM/092022-340791201 ngày 24 tháng 9 năm 2022. Công ty F có trụ sở chính tại quận B, thành phố Hà Nội. Bà H lựa chọn Tòa án nơi cư trú để khởi kiện giải quyết tranh chấp là phù hợp với điểm đ khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự: “Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác đối với người lao động thì nguyên đơn là người lao động có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết”.
Ngày 17/01/2024, Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh thụ lý, giải quyết vụ án không có yếu tố nước ngoài. Tại Công văn số: 2355 /CCTT-ĐKKD ngày 18/6/2024 của Phòng đăng ký kinh doanh Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố cung cấp thông tin và kèm theo hồ sơ: Công ty TNHH F; Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên đăng ký thay đổi lần thứ 02 ngày 14/9/2023 thì người đại diện theo pháp luật của Công ty: Bà Nguyễn Thị M, chức danh: Tổng giám đốc và ông ZHUANG LI HAO, chức danh: Chủ tịch hội đồng thành viên, Quốc tịch Singapore là người nước ngoài, nên Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh ban hành Quyết định chuyển vụ án dân sự số: 40/2024/QĐST-DS ngày 06/9/2024 cho Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp giải quyết.
Tại thời điểm Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp thụ lý vụ án có ông ZHUANG LI HAO là người nước ngoài. Theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên đăng ký thay đổi lần thứ 03 ngày 19/6/2024 của Công ty TNHH F thì người đại diện theo pháp luật của Công ty: Bà Nguyễn Thị M, chức danh: Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc không còn yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, vụ án đã chuyển và Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã thụ lý nên tiếp tục giải quyết là phù hợp với Điều 471 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do vậy, kháng cáo của bị đơn cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm về thẩm quyền xét xử là không có cơ sở chấp nhận.
[3]. Về nội dung kháng cáo: Công ty F kháng cáo không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Lê Ngọc H về việc yêu cầu Công ty F trả 06 tháng tiền lương theo thỏa thuận với số tiền 120.000.000 đồng và tiền lãi chậm trả từ ngày 13/4/2023 đến 19/02/2025 là 22 tháng 06 ngày, nhưng bà H chỉ yêu cầu 22 tháng, lãi suất 0,83%/tháng, cụ thể: 120.000.000 đồng x 22 tháng x 0,83% = 21.912.000 đồng, tổng cộng 141.912.000 đồng.
Ngày 24/9/2022, bà Lê Ngọc H với Công ty TNHH F (Công ty F) ký Hợp đồng lao động số: FWM/092022-340791201. Đây là hợp đồng lao động có hình thức, nội dung phù hợp pháp luật, các chủ thể ký kết hợp đồng lao động là tự nguyện và hợp đồng đã quy định quyền, nghĩa vụ giữa các bên. Thời hạn hợp đồng là 06 tháng kể từ ngày 24/9/2022 đến ngày 23/3/2023.
Theo Hợp đồng lao động nêu trên, bà H làm việc với chức vụ Giám đốc đào tạo cấp cao theo thời hạn thỏa thuận mức lương chính 20.000.000 đồng/tháng. Do Công ty F chưa thanh toán tiền lương 06 tháng kể từ ngày 24/9/2022 đến ngày 23/3/2023 nên phát sinh tranh chấp.
Theo quy định tại Tiểu mục 2.1.1, Mục 2.1, Điều 2 của Hợp đồng lao động quy định về lương và các khoản lợi ích thể hiện: “Mức lương: Lương gộp 20.000.000₫ mỗi tháng, khoản nhận hàng tháng này được gọi là lương cơ bản hàng tháng.”
Nguyên đơn cho rằng Công ty F chưa trả lương cho bà H từ khi ký hợp đồng lao động đến khi Công ty F chấm dứt hợp đồng lao động thời gian 06 tháng, mỗi tháng 20.000.000 đồng, với số tiền 120.000.000 đồng.
Tại các phiên tòa sơ thẩm ngày 19/02/2025, ngày 19/3/2025, ông Đ là người đại diện theo ủy quyền của Công ty F thừa nhận chưa trả tiền lương theo hợp đồng lao động thời gian 06 tháng, mỗi tháng 20.000.000 đồng cho bà H. Việc không trả tiền lương do bà H không đến Thành phố Hồ Chí Minh làm việc và bà H làm việc không hiệu quả. Tại cấp phúc thẩm, phía bị đơn cho rằng giữa bà H và Công ty F đã thỏa thuận thay đổi lại phương thức trả lương, lương được trả trên cơ sở kết quả công việc và phía Công ty F đã trả xong các khoản lương cho bà H. Tuy nhiên, nguyên đơn không xác nhận các nội dung này theo trình bày của bị đơn. Phía bị đơn cũng không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ về vấn đề này.
Theo các tài liệu, chứng cứ và lời trình bày của các đương sự thể hiện. Từ ngày 03/10/2022 – 19/4/2023, Công ty F đã chuyển cho bà H khoản tiền thưởng có xác nhận qua nội dung mail thống nhất nội dung chi trả thưởng, Công ty F chuyển khoản cho bà H tổng cộng 05 lần với số tiền 65.550.000 đồng, chuyển khoản tiền thu nhập đạt danh số, ông Đ là người đại diện của Công ty F cũng thừa nhận bà H đạt danh số tháng 10, 11, 12 năm 2022 và tháng 01 năm 2023, còn tháng 02, tháng 3 năm 2023 không đạt danh số.
Mặt khác, giữa bà H và Công ty F không có trao đổi khoản tiền lương thông qua email ngày 03/3/2023, Công ty F có phản hồi vào ngày 08/3/2023 nội dung mời bà H tham gia cuộc họp Zoom ngày 10/3/2023, kết quả cuộc họp chỉ giải quyết khoản tiền thưởng, chưa giải quyết khoản tiền lương và có xác nhận qua nội dung mail thống nhất chi trả thưởng, được thể hiện bảng sao kê tài khoản tiền gửi của khách hàng tại Ngân hàng V của bà H. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của bà H buộc Công ty F trả 06 tháng tiền lương còn nợ là có cơ sở.
Về tiền lãi chậm trả: Do Công ty F vi phạm nghĩa vụ trả lương cho bà H, việc bà H yêu cầu Công ty F trả tiền lãi chậm trả từ ngày 13/4/2023 đến 19/02/2025 là 22 tháng 06 ngày, nhưng bà H chỉ yêu cầu 22 tháng, lãi suất 0,83%/tháng, cụ thể: 120.000.000 đồng x 22 tháng x 0,83% = 21.912.000 đồng là có căn cứ.
Từ những phân tích nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Ngọc H buộc Công ty F trả tiền lương và tiền lãi với số tiền 141.912.000 đồng là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong quá trình giải quyết vụ án nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị đơn, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Về án phí phúc thẩm: Công ty TNHH F phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
Tải bản án đầy đủ: Bản án sô 042025LĐ-PT

